Phật ôi, con đã ngộ rồi
Thấy trong Thanh tịnh là nơi Quê nhà.
——
THIỀN TÔNG TÂN DIỆU CỨU TINH CỦA ĐỜI TÔI!
Kính thưa các Quý vị!
Tôi là Dương Quang Biên, tôi xin được trình bày sơ lược về NHÂN DUYÊN TÔI ĐƯỢC BIẾT ĐẠO PHẬT KHOA HỌC VẬT LÝ THIỀN TÔNG VIỆT NAM Pháp môn thứ 6 Như Lai Thanh Tịnh Thiền mà Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã để lại truyền theo dòng chảy Thiền tông trên 2.563 năm lịch sử. Được Thiền Tông Sư soạn giả Nguyễn Nhân cho công bố ngày 14/5/2017 tại Đất Rồng 273 ấp Chánh Hội, xã Tân Mỹ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, Việt Nam.
A- ĐÔI NÉT VỀ BẢN THÂN.
Tên tôi: Dương Quang Biên – Sinh năm 1937 Là Phật gia Thiền Tông Việt Nam Số: 2418 TD/BMTT ngày 04/10/2020 (18/8 Canh Tý). Cư ngụ tại thôn Đình, xã Yên Đồng, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc.
Bản thân tôi sinh ra từ họ Đặng (Gốc Trần) xã Tứ Trưng, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Do mê tín sinh con đầu là hay xung khắc không nuôi được phải đem cho họ khác. Tôi được đưa về làm con nuôi họ Dương ở xã Yên Đồng, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc từ khi mới được 8 tháng tuổi đời.
Nghề nghiệp hai bên gia đình Sinh – Dưỡng: Thuần nông làm ruộng có truyền thống theo đạo Phật. Ngay từ khi còn nhỏ tôi thường theo bà Nội lên chùa lễ Phật, nghe kinh được hưởng lộc – Ăn oản. Thời kỳ chiến tranh chống Pháp, chùa bị đốt phá bà Nội tôi già, rồi quá cố qua đời nên tôi không đi chùa nữa nhưng hình ảnh các tượng Phật, tiếng chuông, tiếng mõ, kinh kệ vẫn còn vang vọng mãi trong tôi kể cả sau này lớn lên vẫn không phai nhòa trong ký ức của tôi.
B- NHÂN DUYÊN TÔI GẶP VÀ BIẾT ĐẾN PHẬT PHÁP.
Trong gia đình tôi có ông Đặng Văn Hòa, 67 tuổi là con của anh tôi (cành trên) là Đại biểu Quốc Hội khóa 6 là cán bộ đảng viên công tác tại địa phương sau nghỉ công tác xuất gia ở Thiền viện Trúc Lâm Thường Chiếu Đà Lạt Lâm Đồng, là đệ tử của Hòa thượng Thích Thanh Từ có Pháp hiệu là: Thích Thịnh Chính lập chùa tu Thiền ở chùa Thiền Quang tại quê nhà xã Tứ Trưng, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc. Thầy Thịnh Chính đã trợ duyên, dẫn dắt đưa tôi vào Đạo. Tôi đã được xuất gia gieo duyên – cạo tóc tu ở Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên – Tam Đảo – Vĩnh Phúc do thầy Kiến Nguyệt trụ trì được các thầy: Thông Phổ, Thanh Văn, Thầy Toàn… Giáo dưỡng Tập ngồi thiền, nghe pháp…
Năm 2000 do hoàn cảnh gia đình tôi xin xả giới về tu Thiền ngồi tại gia… tiếp tục sinh hoạt Đạo tràng Thiên Phúc huyện Vĩnh Tường do thầy Tuệ Nguyên trụ trì được thầy Thiện Ngộ, thầy Tuệ Căn hướng dẫn đọc sách, tu Thiền nghe giảng 37 phép trợ đạo, v.v… Hàng năm được đi cúng dường ở các chùa lớn ở Miền Bắc như: Thiền Viện Trúc Lâm Yên Tử, Thiền viện Sùng Phúc Hà Nội, chùa Cái Bầu Quảng Ninh…
Qua các năm được gần sát các thầy sinh hoạt đạo tràng, phụ trách các phần việc quản lý hướng dẫn Phật tử tu tập theo sự chỉ bảo của các Quý thầy trong các thời khóa tập Thiền, nghe Pháp, làm công quả, v.v… Thỉnh thoảng có duyên sự thầy lại cho đi tháp tùng để giúp việc như: gia đình Phật tử có người qua đời, đến làm lễ cầu siêu thay đổi, chuyển dịch mồ mả, khai trương cửa hàng động thổ khai móng làm nhà, tổ chức cưới hoằng thuận trong chùa cho các con em Phật tử đầu năm làm lễ cầu an, phóng sinh; cúng sao, giải hạn xem ngày giờ tốt, xấu; hô Thần nhập tượng… Xong mỗi lần đều có tiền, hiện vật cúng tiến cho thầy.
Qua trải nghiệm, kiểm chứng trong những năm đi các Thiền viện chùa thực tế, mỗi lần đi mất rất nhiều thời gian tốn kém tiền bạc; không có nguồn thu nhập kinh tế gặp nhiều khó khăn kiến thức hiểu biết về Phật pháp ứng dụng vào thực tế cũng chẳng được bao nhiêu. Hàng Phật tử đôi khi cũng nhòm ngó, so bì, toan tính nghi ngờ lẫn nhau, mất đoàn kết… Dần dần tôi thấy chướng duyên, phức tạp bản thân lại bị bệnh đi bệnh viện Trung ương dài ngày mất 03 tháng liền sức khỏe giảm sút dẫn đến sao nhãng, thưa dần không sinh hoạt đạo tràng, ít đi chùa tôi ngồi thiền, đọc kinh, đọc sách Phật tại gia… giành thời gian làm kinh tế gia đình.
C- THIỀN GIA SOẠN GIẢ NGUYỄN NHÂN VIỆN CHỦ CHÙA THIỀN TÔNG TÂN DIỆU LÀ CỨU TINH CỦA ĐỜI TÔI.
Vận may có lẽ cũng do duyên nghiệp nhiều đời phúc lành đưa đẩy; tháng 12 năm 2019 tôi được cháu gái Nhung là cháu ngoại (Hiện nay là Phật gia Thiền Tông) đem cho tôi 02 quyển sách: 1. Quyển Huyền Ký Đức Phật truyền theo dòng Thiền Tông; 2. Đức vua Trần Nhân Tông dạy con cách giữ nước, tín ngưỡng công thức giải thoát và sự thật trên trái đất này. Do soạn giả Nguyễn Nhân biên soạn được Nhà xuất bản Hồng Đức và Nhà xuất bản Tôn giáo Chính phủ cho in ấn phát hành.
Đọc qua từng trang sách, từng câu, từ, chữ nghĩa tôi thấy rất thực tế, khoa học sát gần với cuộc sống đời thường dễ hiểu, dễ đi vào lòng người. Tôi coi như một báu vật rất tinh túy, là Tinh hoa của Nhân loại. Tôi bị choáng ngợp, đã cảm nhận, thẩm thấu ăn sâu vào trí não tôi bừng tỉnh và cảm ngộ được rằng: Đây mới là sự thật là Chân lý phù hợp với Nhân sinh quan Vũ trụ đúng với Quy luật Thiên nhiên Trời Đất vốn có. Được tuần hoàn phát triển theo quy luật khách quan không phải do một đấng Thần linh nào tạo ra tất cả các hiện tượng, sự vật đều có mối quan hệ tương tác qua lại tương quan lẫn nhau; được chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác theo quy luật Luân hồi, Nhân quả.
Qua mách bảo, giới thiệu tôi biết bà Lê Thị Hiền (Là Phật gia Thiền Tông) hướng dẫn chỉ đường đi nước bước các mối quan hệ, tìm hiểu thêm mạng xã hội được bà Tuyết là Phật gia Thiền Tông Hà Nội cho 11 quyển sách Trợ duyên giúp đỡ (tôi đã lần lượt đọc hết).
Suy ngẫm, nghiên cứu càng sâu càng sáng tỏ hơn. Được nghe, hỏi, đáp, trả lời trên các diễn đàn đạo Phật khoa học Thiền tông Việt Nam qua các kỳ đăng tải truyền thông qua đài, trên mạng xã hội. Ngày 04/10/2020 tôi đã trở thành Phật gia Thiền Tông Việt Nam. Tháng 12/2022 tôi tham gia Tìm hiểu Sự thật Trái đất này kèm theo bài thơ kệ “Pháp chủ là gì? Có nhiệm vụ gì?”. Do Kiến thức Người Việt Nam ngày nay tổ chức để giúp người Việt Nam hết mê lầm. Tôi đã được tặng Bằng cảm ơn đạt giải Nhất ngày 12/12/2022. Đây là động lực, cổ vũ, thôi thúc tôi phải đầu tư, cố gắng dành thời gian nhiều hơn nữa cho việc suy ngẫm, khám phá, tiếp cận, mở rộng kiến thức, soi chiếu vào thực tế, áp dụng vào cuộc sống bản thân, gia đình và xã hội để được Giác ngộ, Giải thoát mà Đức Phật đã để lại giúp Chúng sinh, muôn Loài thoát khỏi vòng Sinh tử, Luân hồi trên Trái đất và trong Tam giới này.
Trước khi nhập Niết bàn, Đức Phật để lại lời căn dặn cuối cùng: “… Mọi vật ở trên đời không có gì quý giá, tất cả rồi sẽ tan hoại trở về với cát bụi; chỉ có Đạo Giác ngộ là quý báu; chỉ có chân lý là bất di bất dịch. Hãy tinh tấn lên để Giải thoát; hỡi những người đệ tử thân yêu với lý tưởng sáng ngời…”. Người con Phật tri ân Đức Thế Tôn xin nguyện học và hành theo lời dạy của Ngài.
Quãng thời gian gần 20 năm tu Thiền ngồi kiết già, sám hối 6 căn, tụng Bát Nhã Tâm Kinh theo thời khóa khi ngồi Thiền: “Ưng, Vô, Sở, Trụ, Nhi sanh kỳ Tâm” thấy Vọng tưởng không theo của tôi. Qua trải nghiệm, kiểm chứng đời sống tâm lý, tinh thần không thay đổi; sự hiểu biết về Phật pháp bị hạn chế, sức khỏe có phần giảm sút, trí nhớ kém, đi khám bệnh Bác sĩ bảo tôi bị teo não, giảm trí nhớ; tôi bỏ không ngồi Thiền nữa, thấy tư tưởng thoải mái, tâm lý ổn định, yên tâm hơn, sức khỏe trí nhớ tốt hơn.
Tôi thấy 02 pháp môn Thiền (Thiền học và thiền ngồi) cùng một danh từ hai chữ Thiền tông, tại sao lại có sự khác biệt rất xa cụ thể như:
A- Pháp môn Thiền ngồi, Thiền tông của hòa thượng Thích Thanh Từ. Chủ yếu phải tu tập nghiêm ngặt theo thời khóa; Sám hối 6 căn, tụng Bát Nhã Tâm Kinh xong Hồi hướng. Hàng ngày 02 buổi sớm, tối; là Phật tử phải Quy y Tam bảo, có Pháp danh.
B- Pháp môn thứ 6: Như Lai Thanh Tịnh Thiền cũng gọi là Thiền tông. Chủ yếu là học tập theo Giáo lý của Đức Phật dựa vào Huyền ký của Đức Phật truyền theo dòng Thiền Tông để học, biết, thực hành đem áp dụng soi chiếu vào cuộc sống hàng ngày để kiểm chứng đúng, sai; chánh hay tà theo nguyên tắc: Tín – Nguyện – Hành. Cùng với sự ra đời của quyển “Đức vua Trần Nhân Tông dạy con cách giữ nước – Tín ngưỡng Công thức Giải thoát và sự thật trên Trái đất này” đã khắc họa lên bản thể chân thật của triết lý Khoa học Nhân sinh đã giải mã được tất cả các hiện tượng Hữu hình, Vô hình đang tồn tại trên Trái đất này và trong Tam giới, Càn khôn Vũ trụ giúp Hành giả thấy, hiểu, biết ngộ ra sự thật, tâm trí được sáng tỏ trở về với nhận thức bản thể vốn có trong mỗi con người đó là: Tự tánh, Minh Tâm, Kiến tánh. Được minh định, biết rõ ràng, trong mỗi con Người có 02 thứ Tánh:
– Phật tánh: Thấy, Nghe, Nói, Biết Thanh tịnh.
– Tánh người: gồm 16 thứ: Thọ, Tưởng, Hành, Thức, Danh, Sắc, Tài, Thực, Thùy, Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Ác, Kiến được huân tập trong cuộc sống hàng ngày, tiếp xúc qua 6 Căn: Tai, Mắt, Mũi, Lưỡi, Thân, Ý để hình thành kết tập thành thói quen, phong cách, lối sống cách ứng xử, cách nhận biết đúng, sai; chính hay tà. Tạo ra Nghiệp tốt hay xấu phải lãnh chịu hậu quả trong vòng Luân hồi, Sinh tử được tuần hoàn theo quy luật của Vạn vật Thiên nhiên Trời đất trong Vũ trụ bao la này.
Được biết cấu tạo con Người gồm có thân Tứ đại, tánh Phật, tánh Người và điện từ Âm – Dương.
– Nếu nghĩ, tưởng, hành động giúp người khác an vui, sung sướng là tạo được Phước đức. Phước đức Dương được lên cõi Trời, Phước đức Âm được làm Thần hoặc Người giàu sang.
– Nếu nghĩ, tưởng, hành động làm cho người khác đau khổ là tạo Ác đức thì phải làm loài Súc sinh, hoặc xuống Địa ngục, hoặc làm Hoa báo.
– Còn nếu chê, chửi, triệt phá pháp môn Thiền tông thì bị Siêu ác đức phải xuống Hầm lửa lớn sống hàng chục tỷ năm.
– Nếu nghĩ, tưởng, hành động giúp người khác hiểu biết pháp môn Thiền Tông và biết đường trở về Phật giới thì tạo được Công đức làm vốn trở về Phật giới quê hương cũ nhà xưa của mình, sống trong ngôi nhà Pháp thân Thanh tịnh hình thành Kim thân Phật (loài Người gọi là thành Phật) Từ Phật nhân trở thành Phật quả. Sau đó Kim thân Phật lại tiếp tục trở lại Trái đất để giúp các tánh Phật khác trở về Phật giới, là lại tạo được Công đức nữa.
Đạo Phật khoa học vật lý Thiền Tông Việt Nam ra đời đã giải mã, chứng minh bằng Khoa học tất cả các hiện tượng Vô hình, Hữu hình đang tồn tại hiện hữu trên Trái đất, Tam giới, Phật giới, Càn khôn Vũ trụ này.
Trong Tam giới tức Hệ Mặt Trời có 04 vòng Hoàn đạo và ngoài cùng là vòng bảo vệ Tam giới. Trên các vòng Hoàn đạo có 45 hành tinh có sự sống gồm các cõi Trời Vô sắc, Trời Hữu sắc, Trời Dục giới, và Địa giới.
Vòng Hoàn đạo 1 còn gọi là Địa giới có 6 hành tinh cấu tạo bằng Đất, Nước, Gió, Lửa và Điện từ Âm Dương gọi là Trái đất. Trong đó có Trái đất Nam Diêm Phù Đề là Trái đất mình đang ở có 6 Loài đang cùng chung sống: Thần, Người, Ngạ quỷ, Súc sinh, Địa ngục và loài Thực vật.
Vòng Hoàn đạo 2 là cõi Trời Dục giới có 11 hành tinh, trong đó có Trời Tứ Thiên Vương chuyên sản xuất ra các hành tinh thay thế hành tinh khác bị tiêu diệt.
Vòng Hoàn đạo 3 là cõi Trời Hữu sắc có 11 hành tinh cõi Trời Hữu sắc và 6 nước Tịnh độ rất Thanh tịnh; phía Tây có nước Tịnh độ của Phật A Di Đà, gọi Tây phương Cực lạc.
Vòng Hoàn đạo 4 là cõi Trời Vô sắc gồm 11 hành tinh. Tất cả cấu tạo bằng điện từ Âm Dương, tuổi thọ, mức độ hưởng thụ từng Cõi khác nhau; được tồn tại trong quy luật: Thành – Trụ – Hoại – Không.
Trong Càn khôn Vũ trụ có hằng hà sa số Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới. Mỗi Tam thiên Đại thiên Thế giới gồm một tỷ tỷ tỷ Tam giới. Ngoài các Tam giới là Phật giới cấu tạo bằng điện từ Quang phủ trùm khắp trong Càn khôn Vũ trụ – Vũ trụ đến đâu thì Phật giới đến đó.
Trong mỗi Tam giới có cửa Hải triều Âm đường vào Tam giới vào Trái đất tạo Công đức đem về Phật giới – Cửa Hải triều Dương thoát ra, đường về Phật giới (Ngoài Tam giới), dành cho những ai có Công đức trở về Phật giới quê cũ nhà xưa của mình, chấm dứt Luân hồi, Sinh tử; sống trong ánh Điện từ Quang; hằng Thấy, Nghe, Nói, Biết phủ trùm khắp trong Càn khôn Vũ trụ bao la.
Biết rõ sự cấu tạo 16 tánh Người, hình thành thân Tứ đại: Đất, Nước, Gió, Lửa, điện từ Âm Dương được tồn tại theo quy luật: Sinh – Lão – Bệnh – Tử; khi chết phải trả nợ Nghiệp báo theo quy luật Luân hồi, Nhân quả trong 6 nẻo.
Biết cúng ở đâu cho đúng nơi, đúng chỗ; cúng cho Loài nào ăn theo thứ lớp.
Biết việc chùa là nơi thờ Phật; đình là nơi thờ Thành hoàng làng, Hồn thiêng sông núi; đền thờ Người có công; miếu thờ Cô Hồn… Thiền viện là nơi thờ Tiên; Tu viện là nơi thờ Thánh.
Thực tế hiện nay, gần 2.000 ngôi chùa trong phạm vi cả nước đều đưa Thần, Thánh, Tiên vào thờ, không có Giáo lý nhà Phật, không dạy Giác ngộ Giải thoát, mà chỉ cúng, cầu, lạy lục, xin, mua…
Việc coi bói, trục vong, trừ ma, xem giờ tốt xấu, hô Thần nhập tượng, gõ mõ tụng kinh, dâng sao giải hạn, cầu siêu, cầu an, các nghi lễ đó không có trong Giáo lý nhà Phật mà do các nhà sư lấy từ đạo Lão, đạo Thần đưa vào nhà chùa để mê hoặc bá tánh thập phương cung tiến, cúng dường mưu cầu lợi ích cá nhân.
Được biết đạo Phật chỉ có 6 pháp môn: 5 pháp môn tu Vật lý thành tựu có Chứng, có Đắc; không có Giáo lý.
– Pháp môn Tiểu thừa: Chứng, Đắc thành A La Hán (Thánh bất động).
– Pháp môn Trung thừa: Chứng, Đắc thành Giảng sư đạo Phật.
– Pháp môn Đại thừa: Chứng, Đắc thành kỹ sư Đạo Phật.
– Pháp môn Tịnh độ: Niệm Phật A Di Đà. Về cõi Tây phương Cực lạc.
– Pháp môn Niệm chú: Chứng, Đắc làm Thần y chữa bệnh.
– Pháp môn thứ 6: Như Lai Thanh Tịnh Thiền chuyên dạy Công thức Giác ngộ, Giải thoát. Tinh hoa của Đạo Phật, giúp con người sống theo Khoa học, làm theo Khoa học thực hiện 4 không: Không cúng, không cầu, không lạy, không xin. Tự mình làm chủ bản thân; biết lo cho bản thân, cho gia đình, cho đất nước; sống thủy chung, có đạo nghĩa dân tộc, kiên trung, mưu trí, anh hùng, kiên cường dưới lá cờ Đảng, Tổ quốc quang vinh. Sống trong thời đại văn minh, không mê tín dị đoan, không tin lầm, lạc lối, không yếu hèn, nhụt trí, buông xuôi. Học và làm đúng theo chánh pháp trong Giáo lý, Huyền ký, hoài bão của Đức Phật cốt tủy là Giác ngộ, Giải thoát. Là công dân, là Phật tử Thiền tông khi phát ngôn nói và làm theo đúng Hiến pháp, Luật pháp các chủ trương đường lối của Đảng, để pháp môn thứ 6 là Thiền tông từng bước được thâm nhập, xóa bỏ chuyển hóa lại các chùa hiện nay đang bị mê lầm, chống mê tín dị đoan như Lục tổ Huệ Năng nói Đạo Phật Thiền Tông ra đời phá các Tà tông đã ăn sâu vào trong tâm não con Người, tạo ra những Nghiệp xấu, ác cho Chúng tăng. Tại các Chùa, Cư sỹ tại gia, Phật tử ở các đạo tràng đang tu học bị ảnh hưởng nhiều vấn nạn mê tín dị đoan, đầu độc làm mất giá trị tinh hoa cuộc sống.
Thật lành thay, hạnh phúc thay, con xin một lòng thành kính tri ân Sư Bà, Thiền sư ni Đức Thảo đã lĩnh hội được Giáo lý, Huyền ký dạy Công thức Giác ngộ, Giải thoát của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tại quê hương đất Rồng Long An; đã truyền trao lại cho Người con thừa kế là Thiền gia, soạn giả Nguyễn Nhân biên soạn được in ấn công bố ngày 14/5/2017 đã thức tỉnh bao người, bao thế hệ đang bị mê lầm đau khổ, chìm nổi trong 6 nẻo Luân hồi. Bác Nhân cùng Ban quản trị chùa Thiền Tông Tân Diệu là cứu tinh của đời tôi, đã cho tôi biết cội nguồn cuộc sống, biết được Công thức Giác ngộ, Giải thoát; biết, thuộc Đường về quê cũ, nhà xưa của mình thoát khỏi vòng Luân hồi, Sinh tử.
Thật vinh quang và tự hào chùa thơ Tân Diệu là “Không gian văn hóa tâm linh” được Unesco kết nạp thành viên, là tài sản vô giá cho Tổ quốc, đất nước, dân tộc Việt Nam.
Bác Hồ tuy đã đi xa
Chắc vui lòng lắm nước nhà bình yên
Việt Nam đất nước Rồng Tiên
Tân Diệu hoa nở Thiền Tông ra đời
Lửa hồng sáng khắp mọi nơi
Giải thoát Giác ngộ tại nơi quê nhà.
ĐƯỜNG VỀ
Bác Nhân tuy ở xa
Đã đưa Đạo vào nhà
Đồng tâm cùng Tân Diệu
Đã xướng lên bài ca.
Trên con đường Giác ngộ
Giải thoát quyết tìm về
Cố hương cũ nhà xưa
Lạc đi xa biền biệt.
Trong Sinh tử, Luân hồi
Trồi lên rồi lặn xuống
Bồng bềnh mãi không thôi
Đớn đau và tủi nhục.
Trên đất nước Rồng Tiên
Đang trên đà phát triển
Trong thời đại Bốn không
Con được hưởng phúc lành.
Biết hai chữ Thiền thanh
Có Pháp trần dẫn độ
Có Hoa Tiêu dẫn đường
Chủ động đi từng bước.
Nhất tự một chữ Thiền
“Buông” được về tới đích
Có Đức Phật Mười Phương
Ngự sẵn để dặn dò.
Phải gắng lo học thuộc
Ban lễ Thần Thánh Tiên
Tiễn đưa về quê cũ
Phật giới chốn nhà xưa
Sống vô sanh bất tử
Trong Vũ trụ bao la
Lạc Bang chốn quê nhà./.
——
Chép lại từ video.
——