Tiền và Công sức đổi lấy sự NGU KHỜ | Nguyễn Thị Thêu – Những Người Ngộ Thiền

TIỀN VÀ CÔNG SỨC ĐỂ ĐỔI LẤY SỰ MÊ MUỘI, NGU KHỜ

——

Phật ôi, con đã ngộ rồi

Thấy trong Thanh tịnh là nơi Quê nhà.

——

Kính thưa các Quý vị!

Tôi là: Nguyễn Thị Thêu. Hiện đang sinh sống ở quận Gò Vấp, TP HCM. Tôi biết đến đạo Phật từ năm 2012. Khi biết đến Đạo Phật, tôi cũng như bao người khác chỉ biết đi hết chùa này, thầy nọ để cúng tụng, lễ lạy, cầu xin, đụng đâu lạy đó, làm những điều Mê tín, hao người tốn của. Tôi đi đến không biết là bao nhiêu chùa, gặp bao nhiêu thầy, nhưng Thầy nào cũng dạy tôi những điều giống nhau là: phải cúng dường thật nhiều để có nhiều Công đức, sống được an lạc, chết đi được vãng sanh Tây Phương Cực Lạc.

Nghe các Thầy nói vậy tôi chăm chỉ đi lễ chùa, lễ Thầy. Kiếm được bao nhiêu tiền, tôi cũng đem dâng cúng cho các Thầy hết, với hy vọng mong manh: sống được an lạc, còn chết thì được vãng sanh về cõi Tây Phương Cực Lạc, mặc dù chẳng biết cõi Tây Phương là thế nào, ở đâu?

Có lẽ, Tôi vẫn sẽ cứ hành như vậy cho đến lúc chết nếu như không có một biến cố lớn xảy ra trong cuộc đời tôi. Đó là vào năm 2015, tại thời điểm đó tôi vẫn đang uống thuốc để điều trị bệnh rối loạn cảm xúc thì chị họ tôi rủ tôi đến ngôi chùa của ông Thầy ăn gạo lứt, muối mè ở Nhơn Trạch, Đồng Nai để chữa bệnh. Khi hỏi tôi về bệnh tình, ông ngạc nhiên vì không biết đó là bệnh gì và cũng không hiểu rõ bệnh. Mặc dù vậy ông vẫn kê toa thuốc cho tôi, và kêu tôi bỏ hết thuốc tôi đang uống đi, về ăn bài số 7 và uống thuốc sắc theo hướng dẫn của ông là khỏi bệnh.

Nghe lời ông, tôi bỏ thuốc và ăn uống nghiêm ngặt theo chỉ dẫn. Thế nhưng bệnh tình tôi không thuyên giảm mà còn trở nên nặng hơn, mà tôi lại nghĩ mình đã khỏi bệnh nên bỏ ra nhiều công sức và tiền của để phụng sự cho chùa để đền ơn ông. Tôi coi và tôn thờ ông như một vị Bồ Tát sống, một người Thầy, một người cha đã sinh ra tôi lần thứ 2. Tôi cũng đã cúng vào chùa một số tiền lớn mà không hề suy nghĩ hay tính toán gì cả.

Khi bệnh tôi trở nặng, gia đình tôi rất lo lắng cho tôi, khuyên bảo tôi uống thuốc nhưng tôi nhất mực không nghe. Cho đến khi tôi bị tai nạn nên phải vào viện và mê man, bất tỉnh trong viện nửa tháng trời. Rồi tôi được xuất viện về nhà trong tình trạng sức khỏe kiệt quệ, thân hình tiều tụy chỉ còn 35 ký vì 4 tháng ăn dưỡng sinh rồi lại bị tai nạn đã vắt kiệt sức khỏe của tôi.

May mắn thay tôi có một đại gia đình hết lòng yêu thương, chăm sóc và lo lắng cho tôi. Đặc biệt là chồng tôi. Anh yêu thương và chăm sóc tôi vô điều kiện từng ly từng tý một, nên sức khỏe của tôi cũng dần bình phục.

Khi sức khỏe dần ổn, tôi lại tiếp tục tới chùa để xin ông Thầy làm những công việc phụng sự cho chùa. Ông Thầy có qui định chỉ cho phép tất cả các Phật tử được đảnh lễ ông vào sáng chủ nhật hàng tuần, nhưng những Phật tử nào cúng nhiều tiền cho ông thì ông tiếp bất cứ lúc nào. Khi Tôi vào trong thất thấy ông ngồi trên một chiếc ghế rồng cao, trước mặt là một cái chuông lớn để bỏ tiền cúng dường, Phật tử ở phía dưới thì xì sụp quì mọp sát đất để lạy ông và cúng dường một cách khúm núm sợ sệt như người mắc lỗi.

Tôi cũng mon men tới gần chỗ ông ngồi để đảnh lễ, cúng dường và nói với ông rằng: Thời gian vừa qua tôi bỏ thuốc để điều trị theo phương pháp dưỡng sinh của ông, bệnh tôi không những không khỏi mà còn trở nên nặng hơn. Khi tôi vừa dứt lời thì ông chỉ thẳng mặt tôi mắng nhiếc tôi là hỗn hào, rồi mạt sát tôi một cách không thương tiếc trước mặt tất cả bao người trong thất. Tôi như bị cả xô nước lạnh hất thẳng vào mặt khiến tôi choáng váng, ù hết cả tai. Lúc đó tôi chỉ biết lạy lên, lạy xuống liên hồi để cầu xin ông xá tội cho tôi nếu như tôi có điều gì không phải đối với ông.

Tuy nhiên, ông vẫn lớn tiếng chửi bới rồi cấm tôi không được tới chùa của ông nữa. Mọi người trong thất ai ai cũng ngơ ngác không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Còn tôi thì đau đớn lui ra về mà lòng thì ê chề nhục nhã. Sau lần đó tôi không lên chùa ông nữa nhưng lòng thì chất chứa một nỗi buồn vô hạn không gì có thể khỏa lấp và tinh thần thì bị tổn thương ghê gớm. Tôi bị một cú sốc nặng. Cũng vì đó mà tôi bị trầm cảm, u uất không còn thiết sống nữa.

Có lẽ, tôi sẽ không vượt qua được tình trạng đó nếu như không có một hôm bất ngờ anh Tuân ở Mê Linh, Vĩnh Phúc, người mà tôi đã gặp ở chùa Long Hương đã gọi điện và chia sẻ cho tôi Pháp môn Thiền Tông là Pháp môn tu thứ 6 của Đức Phật Thích Ca mà đến thời kỳ Mạt Thượng Pháp này Thầy Nguyễn Nhân ở chùa Thiền tông Tân Diệu có nhiệm vụ phổ biến ra.

Nghe lời anh, tôi tới nhà Thầy Nguyễn Nhân ở quận 3, để xin sách về đọc. Tới nơi tôi được gặp Thầy, những gì đầu tiên tôi cảm nhận được ở Thầy đó là sự chân phương, hiền hậu và giản dị vô cùng, và quan trọng là ai muốn gặp Thầy để hỏi Đạo Thầy cũng đều đón tiếp một cách nồng hậu không từ chối bất cứ một ai. Ai có gì thắc mắc hỏi Thầy, Thầy đều giải thích một cách tường tận, rõ thông, thuận lý và khoa học.

Chính vì điều đó làm tôi rất thắc mắc. Tôi cứ nghĩ người tôi gặp sẽ phải là một ông Thầy tu cạo đầu, ở nơi có Chùa to Phật lớn, quyền uy và rất khó gặp như những ông Thầy tôi đã từng biết trước kia. Nhưng những gì tôi thấy ở Thầy Nguyễn Nhân lại hoàn toàn không phải vậy. Khi tiếp xúc với Thầy, Thầy ôn tồn, hiền hậu nói với tôi: Con cứ về đọc sách kỹ đi, có gì con không hiểu, Bác sẽ giải thích giúp cho…

Chính điều Thầy nói đó đã hối thúc tôi đọc tìm hiểu Bộ sách một cách miệt mài để xem Bộ sách nói về những gì. Mới đầu đọc tôi chẳng hiểu gì cả nên tôi đọc đi đọc lại nhiều lần. Thú vị thay, càng đọc Bộ sách càng cuốn hút tôi, khiến tôi dần hiểu ra bao điều mà trước kia tôi không hề hay biết.

Tôi hiểu được đạo Phật có 6 pháp môn tu là: Tiểu Thừa. Trung Thừa. Đại Thừa. Mật Chú. Tịnh Độ và Thiền Tông. Trong đó 5 Pháp môn đầu là tu hành dụng công có thành tựu Vật lý còn đi trong Luân hồi. Còn Pháp môn tu thứ 6 là Thiền tông giúp con người được Giác ngộ và Giải thoát. Chứ không phải đạo Phật có 8 ngàn 4 vạn pháp môn tu hay vô lượng pháp môn tu như các Thầy vẫn nói.

Tôi hiểu ra điều cốt tủy mà trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa đã nói rằng: Con người ai cũng có tánh Phật nên ai cũng như ai. Tánh Phật trước kia ở Phật giới là 1 Kim Thân Phật siêu nhỏ có 4 thứ: Thấy, Nghe, Nói, Biết nhưng thanh tịnh. Vì ham muốn có một Kim Thân Phật lớn để đi lại trong Càn khôn Vũ trụ độ người nên tánh Phật vào Tam giới với mục đích tạo Công đức mang trở về Phật giới để có một Kim Thân Phật lớn. Tuy nhiên khi vào Tam giới, tánh Phật phải vào thai mẹ ngủ 9 tháng 10 ngày để sinh ra là 1 đứa trẻ nên tánh Phật quên đi nhiệm vụ của mình là tạo Công đức mà lại tạo Ác đức và Phước đức khiến tánh Phật phải Luân hồi trong lục đạo: Trời, Thần, Người, Ngạ Quỷ, Súc Sanh và Địa Ngục hàng tỷ kiếp. Chỉ đến khi gặp được Thiền tông tánh Phật mới nhớ được nhiệm vụ của mình là tạo Công đức để trở về Phật giới thành một Kim Thân Phật để không còn Luân hồi trong Lục đạo nữa.

Nhờ có Thiền tông mà bao nhiêu thắc mắc của tôi về đạo Phật cũng như mọi thắc mắc trong cuộc sống được tháp gỡ. Tôi hiểu ra Trái đất này có 3 đạo chính:

1- Đạo Thần, Thánh, Tiên: Do Thánh chủ Trái đất lập ra cho con người vào đó tu để né Nhân quả.

2- Đạo Âm: Hiển Linh, Tình Thương, Bác Ái: Do Chúa chủ Thế giới lập ra để giữ con người ở lại Trái đất.

3- Đạo Giải Thoát: Do Đức Phật Thích Ca lập ra, để giúp con người Giác ngộ và Giải thoát.

– Giác ngộ là giúp con người biết toàn diện trong Càn khôn Vũ trụ có những gì.

– Còn Giải thoát là thoát khỏi Quy luật: Nhân quả, Luân hồi, Sinh – Lão – Bệnh – Tử, trong Tam giới, để trở về Phật giới thành một vị Phật, không còn trôi lăn trong Lục đạo Luân hồi nữa.

Như vậy đạo Phật do Đức Phật Thích Ca lập ra với mục đích tối thượng là giúp con người Giác ngộ và Giải thoát chứ không phải để con người lễ lạy, cầu xin như trước kia tôi cũng như bao người khác vẫn làm. Trước kia, đụng đâu tôi cũng lạy, cũng vái và cầu xin đủ thứ, nhưng giờ tôi hiểu ở Trái đất này là Ngũ thú tạp cư gồm: Thần, Người, Ngạ Quỷ, Súc Sanh và Địa Ngục. Vậy lạy ai bây giờ? Không lẽ con người là đẳng cấp cao nhất rồi mà còn đi lạy 4 loài kia. Còn lạy Người ư? Con người ai cũng có tánh Phật như nhau, có ai hơn ai đâu mà lạy nhau làm gì? Rồi cầu xin đâu cũng có được Ông Phật, ông Thần hay ông Thầy chùa đâu có phải là những người ban phước, giáng họa cho mình đâu mà lễ lạy, cầu xin.

Khi hiểu được điều này tôi mới thấy trước kia mình sống quá khiếp nhược, quá ngu và vô minh. Tiền có bao nhiêu không dám tiêu xài mà cứ ky cóp để mang đi cúng cho các ông Thầy chùa, đã mất tiền rồi mà còn khúm núm, sợ sệt, lạy các ông sói đầu như người có tội, rồi để các ông Thầy chùa hù dọa đủ đường, bảo sao làm vậy, đúng thật là quá ngu khờ.

Nhìn lại quãng đường tôi đã mò mẫm đi qua sau hơn 10 năm đi tầm đạo, những gì tôi có được đó là việc mất quá nhiều tiền bạc, thời gian và công sức để đổi lấy sự mê muội, ngu khờ, khiếp nhược và vô minh, khiến cuộc sống trở nên bế tắt và mất phương hướng. Thật là quá khổ!

Cứ tưởng tôi sẽ mãi mò mẫm đi trong bóng đêm như vậy cho tới lúc chết. Nhưng may thay số phận đã mỉm cười với tôi nhờ tôi biết đến Thầy Nguyễn Nhân, biết đến Chùa Thiền tông Tân Diệu đã cho tôi tìm được ánh sáng cuộc đời thật diệu kỳ và mầu nhiệm. Trước đây tôi như người mù giờ có được đôi mắt sáng nên thấy biết mọi thứ đều được rõ ràng và chân thật.

Tôi hiểu và phân biệt được: Thế nào là Công đức? Thế nào là Phước đức? Thế nào là Ác đức? Công đức là giúp cho người khác hiểu về Thiền Tông, để trở về Phật giới. Phước đức là giúp người khác an vui, bớt khổ. Còn Ác đức là làm người khác đau khổ, làm hại người khác.

Tôi hiểu Càn khôn Vũ trụ là một không gian bao la trùm khắp không biên giới, có 2 phần bao gồm: Phật giới và Tam giới. Càn khôn Vũ trụ có đến đâu thì Phật giới trùm khắp đến đó. Phật giới là nơi ở của các Kim Thân Phật và tánh Phật được bảo quản bởi điện từ Quang đơn cực nên không có sinh hóa, đối đãi, không có sinh lão bệnh tử, thành trụ hoại diệt. Sự sống của các Kim Thân Phật và tánh Phật là trường tồn.

Phần thứ 2 trong Càn khôn Vũ trụ là Tam giới. Trong Càn khôn Vũ trụ có hằng hà sa số các Tam giới hay còn gọi là Hệ Mặt Trời. Mỗi một Hệ Mặt Trời có có 45 hành tinh có sự sống, bao gồm 5 bầu Hoàn đạo là: Địa giới, Dục giới, Sắc giới, Vô Sắc giới và vòng bảo vệ. Tam giới được duy trì và bảo quản bởi điện từ Âm Dương biến thể nên tất cả các loài sống chung trong Tam giới đều bị chi phối bởi quy luật Vật lý điện từ Âm Dương là Thành – Trụ – Hoại – Diệt, Sinh – Lão – Bệnh – Tử, quy luật Nhân quả Luân hồi không một ai có thể thoát ra khỏi quy luật đó mà cứ vĩnh kiếp mãi trầm luân, trôi lăn trong Lục đạo cho dù có là Chúa cõi Trời hay là Vua cõi Người.

Các tánh Phật sẽ vĩnh kiếp mãi trầm luân nếu như không gặp được Thiền tông, bởi 10.000 năm mới có 1 lần Thiền tông được phổ biến ra để đưa tánh Phật có Công đức trở về Phật giới. Vì thế sinh thời ai gặp được Thiền tông quả thật là một điều thật hiếm có và hy hữu. May mắn thay, thời kỳ Mạt Thượng Pháp này, Thiền Tông đã được Thầy Nguyễn Nhân ở chùa Thiền Tông Tân Diệu phổ biến ra để cứu giúp những ai có duyên lớn với Thiền tông trở về Phật giới, thoát khỏi quy luật Luân hồi sinh tử nếu như người đó có ham muốn mãnh liệt, có Công đức trong sáng và biết được Công thức Giải thoát để trở về Phật giới là quê hương xưa cũ của mình. Đó chính là điều trân quý, giá trị nhất và cũng là cốt tủy, tinh hoa của đạo Phật mà không phải ai cũng có cơ may biết đến và hiểu được. Thế nên khi gặp được Thiền tông rồi thì phải biết trân quý và giữ gìn, học và hành cho đúng để được trở về Phật giới thành một Kim Thân Phật lớn.

Còn ngược lại, những ai khinh chê, chửi, phá hoặc cướp Pháp môn Thiền tông thì sẽ bị đọa vào hầm lửa lớn, khi trả hết nghiệp sẽ trở thành con vi khuẩn chuyên ăn thịt thối rữa như trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa đã dạy rằng: Người chửi Đức Phật không nặng bằng khinh chê Pháp môn Thiền Tông.

Từ khi biết đến Thiền tông, áp dụng chữ “Buông” vào cuộc sống, tôi buông bỏ được nhiều thứ não phiền, khiến cuộc sống của tôi được đơn giản, thanh thản và nhẹ nhàng. Thiền tông giúp tôi sống thực tế, khoa học, không tin lầm và tin sai sự thật vào những điều Mê tín, Dị đoan như trước nữa. Hiểu được giá trị cao quý của Thiền tông, giá trị của cuộc sống và biết sau này chết mình sẽ đi về đâu nên cuộc sống của tôi vui vẻ đầy ý nghĩa chứ không còn trầm cảm, u uất và lo lắng như trước nữa. Từ đây cuộc đời tôi coi như đã mở sang một trang mới. Bệnh của tôi dần ổn định. Tôi như được sinh ra lần thứ 2 với một thân thể khỏe mạnh và đầy trí huệ nhờ có Thầy Nguyễn Nhân, nhờ Thiền tông dẫn lối chỉ đường.

Trước kia, khi chưa gặp Thầy Nguyễn Nhân cũng như Thiền tông, tôi rất sợ cái chết, thế nên tôi thường xuyên tạo Phước để mong sống được an lạc, chết được về cõi Tây Phương Cực Lạc như lời các Thầy vẫn nói. Dù vậy nhưng không hiểu sao tôi không có niềm tin tuyệt đối vào đó. Tôi thấy sự sống và cái chết quá mông lung và mong manh, tôi không biết bấu víu, an trú vào đâu để cho cuộc sống được thật sự an lạc cũng như tin tưởng có một chốn an nhiên để trở về khi rời bỏ thân tứ đại.

Chỉ đến khi gặp được Thầy Nguyễn Nhân và hiểu Thiền tông: bao nhiêu não phiền, lo sợ, thắc mắc của tôi mới được tháo gỡ. Thầy cho tôi hiểu rằng con người ai cũng phải sống theo Nghiệp. Nghiệp có là do con người dùng 16 thứ tánh người là: Thọ, tưởng, hành, thức, tài, sắc, danh, thực, thùy, tham, sân, si, mạn, nghi, ác, kiến để suy nghĩ và hành động mà tạo thành Nghiệp. Nghiệp có nghiệp Ác đức và nghiệp Phước đức, tất cả đều do mình tạo ra từ nhiều đời, nhiều kiếp chứ không phải ông Thần hay ông Phật nào ban Phước hay giáng họa cho mình cả. Mà Nhân quả thì công bằng một cách tuyệt đối, không loại trừ bất cứ một ai. Khi Nghiệp tới một là mình hưởng Phước, hai là chịu quả báo. Thế nên khi Nghiệp tới cứ vui vẻ mà chấp nhận chứ đừng có cự nự. Sống thì theo Nhân quả, chết cũng theo Nghiệp mà đi Luân hồi nếu không biết đến Giác ngộ và Giải thoát.

Từ khi hiểu được điều đó, tôi như rũ bỏ được bao nhiêu lo lắng, ưu phiền để cuộc sống được thật sự an nhiên, tự tại và có được niềm tin tuyệt đối, mãnh liệt vào nơi trở về của mình là Phật giới khi Thân tứ đại trở về với cát bụi. Đó chính là phương hướng và mục đích sống cao cả đích thực của cuộc đời tôi mà may mắn khi gặp được Thầy Nguyễn Nhân, gặp được Thiền tông tôi mới thực sự hiểu ra và có được.

Và điều may mắn, niềm vui của cuộc đời tôi được nhân lên gấp bội lần khi Mẹ tôi, anh trai tôi và chồng tôi cũng đi theo Pháp môn Thiền tông này. Đó chính là hạnh phúc lớn nhất của cuộc đời tôi mà không có gì có thể đánh đổi được cũng như quý giá bằng.

Tôi vô cùng biết ơn Đức Phật Thích Ca đã để lại Pháp môn Thiền tông tuyệt quý này cho nhân loại, cũng như biết ơn Thầy Nguyễn Nhân đã dày công phổ biến Pháp môn lợi lạc này ra trong thời kỳ Mạt Thượng Pháp này.

 

Xưa kia chưa biết Thiền tông

Dày công 6 chữ niệm thuần Nam Mô

Hai thời lạy Phật sớm trưa

Mong tan nghiệp ác dây dưa với mình

Sớm chiều gõ mõ tụng kinh

Thuộc làu kinh sách mà mình chẳng thông

 

Cho dù đồng nhỏ đồng to

Bỏ ra mua cá thời thì mua chim

Phóng sinh cứ vậy mong mình sống lâu

Tiền lương ky cóp bấy lâu

Cúng dường tạo Phước mong về Tây Phương.

 

Thầy bảo cứ thế con tu

Có ngày chứng quả… ôi thì con mong

Bao năm lận đận long đong

Quả đâu chẳng chứng mà lòng như tơ.

 

Một hôm sáng sớm tinh mơ

Nghe chuông điện réo ô là anh Tuân

Rằng anh mới biết Thiền tông

Không chứng không đắc dụng công chẳng cần.

 

Thoạt nghe thắc mắc muôn phần

Tu sao lạ quá chẳng cần thứ chi

Lại nghe anh chỉ đường đi

Thầy Nhân có sách đọc thì biết ngay.

 

Tức thì vội vã đi ngay

Xin 10 cuốn sách đọc ngày đọc đêm

Càng đọc con càng sáng thêm

Ngộ ra bao thứ mê lầm bấy lâu.

 

Hiểu ra tận chỗ thâm sâu

Thiền tông 4 chữ chẳng cầu chi ai

Xưa kia mải miết trần ai

Cứ dính cứ mắc mệt nhoài tấm thân.

 

Giờ con đã biết Thiền tông

Không dính không mắc là mình tịnh thanh

Nơi đây Phật chỉ rõ rành

Buông, Dừng, Thôi, Dứt tử sanh hết liền!

Giờ đây con hết não phiền

Một đường thẳng tiến về miền quê xưa!

——

Chép lại từ video.

——

 

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *