Kính thưa quý vị,
Nhân dịp kỷ niệm 8 năm ngày công bố Huyền Ký của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tại “Đất Rồng” của tỉnh Long An (14/05/2017 – 14/05/2025) được truyền qua 36 Vị Tổ Sư Ấn Độ – Trung Hoa – Việt Nam về Pháp môn Thiền Tông (tức Như Lai Thanh Tịnh Thiền), Pháp môn có một không hai trên thế giới mà Đức Phật đã khai thị cho thế giới loài Người và “Con đường Giác ngộ và Giải thoát”.
Tôi Nguyễn Quang Chính, đại diện các Thiền Tông sư, Thiền Tông gia, Phật gia Thiền tông, Phật tử Thiền tông tu tại gia của chùa Thiền Tông Tân Diệu tọa lạc tại số 273 ấp Chánh Hội, xã Tân Mỹ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, xin chia sẻ cùng Quý Đồng Đạo xa gần trong cả nước một vài cảm ngộ của mình mà trong suốt 8 năm qua, chúng tôi tiếp nhận được từ Pháp môn Thiền Tông tuyệt quý này.
Pháp môn Thiền Tông là Pháp môn thứ 6, cũng là Pháp môn sau cùng rất thực thế và Khoa học mà Đức Phật không dạy cho các đệ tử vào thời kỳ Ngài còn tại thế, mà phải đến thời Mạt Thượng pháp khi con người bước vào thời đại Nguyên tử – Điện tử, thì Pháp môn Thiền Tông mới cho công bố ra giúp con Người hiểu rõ Quy luật Nhân quả Luân hồi, sức hút Vật lý của Điện từ Âm Dương và Công thức Giải thoát, để trở về Phật giới.
Trong suốt 49 năm truyền đạo, Đức Phật dạy tổng cộng 6 Pháp môn tu: Đức Phật dạy 5 pháp môn tu có chứng có đắc đi trong lục đạo luân hồi để thỏa mãn lòng ham muốn của con người. Đức Phật dạy pháp môn thứ 6 là pháp môn Thanh Tịnh Thiền, pháp môn này Đức Phật không dạy tu mà dạy học có 4 chữ: Giác ngộ – và Giải thoát.
* Giác ngộ: tức là học để hiểu biết toàn diện những gì trong Trái đất, Địa giới, Tam giới, Phật giới và khắp trong Càn khôn Vũ trụ. Từ Hữu hình đến Vô hình.
* Giải thoát: tức là học Công thức để thoát ra ngoài sức hút Vật chất và Vật lý của Điện từ Âm Dương nơi Trái đất và Tam giới để trở về Phật giới thành Phật.
Khi Pháp môn thứ 6 của Đức Phật được chùa Thiền tông Tân Diệu trình bày ra rất rõ ràng thì các nhà Khoa học, các nhà Vật lý học, các tầng lớp trong xã hội cũng như hàng ngàn Phật tử trong và ngoài nước đã nhìn nhận Đạo Phật rất Khoa học, Không mơ hồ hay mê tín nữa, vì trong 6 Pháp môn tu thì Pháp môn nào cũng được Đức Phật trình bày rõ ràng như: Tu để thành gì? Thành rồi sau này làm việc chi? Công thức tu như thế nào? Trước khi truyền đi theo dòng Thiền Tông tuyệt mật, Đức Phật dạy Ông Ma Ha Ca Diếp 12 câu kệ:
Phật giới gồm có những chi.
Càn khôn vũ trụ có chi phải tường.
Tam giới phải rõ thông đường.
Người tu theo Phật rõ đường để đi.
Tánh Người phải biết là chi?
Ở trong tánh Phật có gì phải thông?
Phải rõ luân chuyển trong trần.
Giải thoát ra khỏi đường trần là an.
Như Lai dạy rất rõ ràng.
Không chịu tìm hiểu nói càng kiếm danh.
Cứ mãi lường gạt đua tranh.
Cứ đi, đi mãi loanh quanh luân hồi.
Để cung cấp cho các Vị Tổ Sư Thiền Tông làm căn bản về pháp môn Thiền Tông này, về sau này truyền lại cho các Vị Thiền Tông Sư, Thiền Tông gia làm bản gốc, đến thời Mạt Thượng pháp cho phổ biến ra.
Chùa Thiền Tông Tân Diệu là ngôi chùa có một không hai trên Thế giới và cũng là ngôi chùa duy nhất ở Việt Nam. Chuyên dạy Giác ngộ và Giải thoát, pháp môn Thiền Tông trở thành niềm tự hào chính đáng và tin cậy của nhân dân Việt Nam. Chùa thật sự làm lợi lạc rất lớn cho đất nước. Kiến thức của chùa Thiền Tông giúp cho dân giàu nước mạnh giúp cho người dân chúng tôi có cuộc sống an vui và hạnh phúc hơn. Khai mở cho con người trí tuệ sáng suốt, hiểu rõ sự thật về kiếp Nhân sinh, quy luật Luân hồi và Con đường Giải thoát, tạo niềm tin mãnh liệt trên hành trình trở về Phật giới!
Chúng tôi thật sự biết ơn đến Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, biết ơn 36 Vị Tổ Sư Thiền Tông Ấn Độ – Trung Hoa – Việt Nam và Thiền Sư Ni Đức Thảo, Viện Chủ Thiền Tông Sư Soạn giả Nguyễn Nhân và Ban Quản trị chùa Thiền Tông Tân Diệu khai thị cho chúng tôi hiểu rõ sự thật trên Trái đất này, và Con đường Giải thoát trở về Phật giới, về Quê xưa của chính mình.
Bởi pháp môn Thiền Tông không tu, chỉ học và hành đúng lời Phật dạy, không mê tín dị đoan, không kêu gọi cúng dường. Chủ chùa và Ban Quản trị chùa tổ chức các hoạt động từ thiện An Sinh xã hội bằng Tâm – Tài – Lực của chính mình, thực hiện lời Bác Hồ dạy: “Đã là người Việt Nam thì ai cũng phải có trí tuệ sáng suốt. Có gia đình lo cho gia đình, có bản thân lo cho bản thân, có Tổ quốc lo cho Tổ quốc. Không nên dựa dẫm vào thần thánh, mà biến mình thành kẻ nghèo hèn, khiếp nhược”. Sống làm người có đạo đức Nhân – Nghĩa – Lễ – Trí – Tín, không màng danh lợi, vô trụ với vật chất, vô trụ với trần cảnh. Chùa cho hỏi tự do từ thế giới hữu hình đến vô hình và được trả lời rất khoa học, thuận lý. Ở chùa không có thùng công đức.
Thật sự, Pháp môn Thiền Tông vô cùng quý báu. Bởi chúng tôi thấm thía lời Đức Phật dạy: “Dù làm Vua cõi Người, dù làm Chúa cõi Trời, cũng không bằng làm Phật ở Phật giới”.
Với những ai muốn tìm đến con đường Giác ngộ và Giải thoát, thì hãy một lần đến chùa Thiền Tông Tân Diệu, tìm hiểu học tập để hiểu rõ lời Đức Phật dạy: “Đời là biển khổ mênh mông”. “Tam giới như nhà lửa”, một khi “Mất thân người rồi, rất khó có cơ hội trở lại”. Muốn tìm hiểu Giáo lý của Đức Phật – hãy tự thắp đuốc lên mà đi. Nhưng ngọn đuốc đó phải là ngọn đuốc Chánh pháp Thiền Tông thì chúng ta mới đến được đích.
Cuối cùng, nhân dịp kỷ niệm 8 năm ngày công bố Huyền ký của Đức Phật về pháp môn Như Lai Thanh Tịnh Thiền, Đoàn Phật tử Thiền Tông chúng tôi xin trân trọng gửi đến Viện chủ – Thiền Tông Sư – Soạn giả Nguyễn Nhân và tập thể Ban Quản trị chùa Thiền Tông Tân Diệu, những người giữ hồn, giữ lửa Thiền Tông, đem “Tinh hoa Cốt tủy” của Đạo Phật đến với thế giới loài Người thời Mạt Thượng pháp. Lời biết ơn sâu sắc, lời chúc mừng tốt đẹp!
Sau đây chúng tôi xin trình bày những cảm ngộ của mình bằng các bài kệ sau đây:
Bài thứ nhất: Chúc mừng 8 năm Huyền ký của Đức Phật ra đời.
Phá tan đêm tối mịt mờ.
Khai thông minh trí cho Người u mê.
Hoa Thiền thắp sáng đường về.
Chỉ cần Thôi, Dứt hết liền tử sanh.
Nhờ chùa Tân Diệu con “Dừng”.
Công bố Huyền ký phá Rừng Vô Minh.
Tám năm giông bão muôn trùng.
Nhưng Chùa vẫn vững giữa Rừng giáo gươm.
Công lao Long Nữ sáng ngời.
Cùng bao công sức của Thầy Nguyễn Nhân.
Chúng con nhận được rất mừng.
Mừng vì Quê cũ đã về với con.
Chúng con thành kính tri ân.
Công ơn Phật, Tổ, các Thầy truyền trao.
Long An – Tân Diệu đất lành.
Tinh hoa đạo Phật, chính danh Chùa Thiền.
Con mong Chùa mãi an yên.
Để ai Tâm tối, sáng đèn Như Lai.
Bài thứ 2: Huyền Ký âm vang.
Tám năm Huyền Ký Thích Ca.
Thời mạt Thượng Pháp phổ ra đất rồng.
Phổ ra chánh pháp Thiền Tông.
Truyền khắp nước rồng Truyền đến năm châu.
Soi đường dẫn lối tạo màu.
Giúp cho nhân loại hiểu câu Phật đà.
Phật tánh sẵn ở trong ta.
Không tìm không kiếm đó là pháp tu.
Phá đi những pháp tu mù.
Phá đi mê tín phá tan hôn trầm.
Huyền ký của Phật uyên thâm.
Khai mở chánh pháp Thiền Tông Phật đà.
Thiền Tông chánh pháp nở hoa.
Bốn chục ngàn người ngộ đạo Thiền thanh.
Thiền thanh là nhất tự thiền.
Buông – dừng – thôi – dứt, hết liền tử sanh.
Tu thiền phải bỏ lợi danh.
Lợi danh coi trọng ấy là ma tu.
Thiền Tông là một pháp tu.
Đưa người giác ngộ trở về Quê Xưa.
Tám năm Huyền ký Truyền thừa.
Khai mở chánh pháp Nhân Thiên đón mừng.
Bài thứ 3:
May mắn thay, Huyền ký Phật ra đời.
Chính quyền Long An, Hội Đạo Phật cho mời.
Chín báo lớn, nhiều đài về tác nghiệp.
Huyền ký Phật, 60 năm dấu biệt.
Sư Bà truyền, Thầy Nhân viết chờ thời.
Thượng Mạt pháp, phổ ra cứu loài người.
Truyền công thức, người muốn tu thành Phật.
Con Tiên Rồng, quá vui mừng khóc thật.
Kính Thầy Nhân, đại Bồ Tát lâm phàm.
Viện chủ chùa Thiền Tân Diệu Long An.
Phổ Huyền Ký, bốn vạn người giác ngộ.
Học Thiền Tông, người làm Phật không khó.
Về quê xưa, bản Hoài Phật Thích Ca.
Mình thành Phật, được tái nhập Ta Bà.
Theo giúp người muốn học về Phật giới.
Đạo Phật Thiền Tông Việt Nam, phấn khởi.
Huyền ký Phật, Thầy Nhân đã trùng tuyên.
Hỡi năm châu, người hữu phúc đại duyên.
Người thành Phật, tri ân Thầy – Phật – Tổ.
Bài thứ 4: Hoa Thiền đã nở.
Hoa một nở tại Linh Sơn.
Hoa hai nở ở Yên Sơn nước Rồng.
Hoa ba nở chùa Thiền Tông.
Nở khắp nước Rồng, nở đến năm châu.
Tám năm Khai Mở đạo màu.
Bốn chục ngàn Phật tử, hiểu sâu tu thiền.
Bắc – Trung – Nam khắp mọi miền.
Người người giác ngộ pháp thiền Thích Ca.
Hiểu sao phải ở Ta Bà.
Hiểu sao ta được về nhà quê xưa.
Tám năm Huyền ký Truyền thừa.
Tám năm vật lý chẳng ưa pháp thiền.
Tám năm Lan tỏa mọi miền.
Tám năm Lan tỏa khắp miền sơn lâm.
Huyền ký của Phật thậm thâm.
Giúp người giác ngộ về quê của mình.
Huyền ký là ánh sáng bình minh.
Soi đường dẫn lối chúng sanh mê mờ.
Huyền ký như áng văn Thơ.
Là cội văn hóa bến bờ yêu thương.
Xin trân trọng cảm ơn quý vị!