Lễ Công Bố Huyền Ký Của Đức Phật Truyền Theo Dòng Thiền Tông

Trước khi bắt đầu buổi Lễ, chúng tôi xin được giới thiệu sơ lược về nội dung chương trình buổi Lễ ngày hôm nay.

1- Đầu tiên là phần tuyên bố lý do buổi Lễ của Viện chủ chùa và giới thiệu đại biểu tham dự.

2- Là giới thiệu Mạch nguồn Thiền tông.

3- Là trình bày tham luận của 2 vị Giác ngộ Thiền tông.

4- Tự sự thực tế của 2 trường hợp Giác ngộ Thiền tông đặc biệt và hy hữu.

5- Phần cuối cùng, là phần Công bố Huyền Ký của Đức Phật truyền theo dòng Thiền Tông.

Để bắt đầu khai mạc buổi Lễ, xin mời 3 hồi chuông trống Bát nhã.

Mở đầu, xin mời Thiền gia Soạn giả Nguyễn Nhân, Viện chủ kiêm Trưởng ban Quản trị Tổ đình chùa Thiền Tông Tân Diệu lên tuyên bố lý do có buổi Lễ hôm nay. Xin mời Thiền gia.

Tôi xin tuyên bố lý do có buổi Lễ ngày hôm nay:

Kính thưa quý vị!

Tôi xin thay mặt Ban Quản trị chùa Thiền Tông Tân Diệu xin tuyên bố lý do có buổi Lễ tập Huyền Ký ngày hôm nay của Đức Phật truyền theo dòng Thiền Tông.

Vào năm 1958, Thiền Sư ni Đức Thảo là Viện chủ chùa Thiền Tông Tân Diệu này, có trao cho chúng tôi tập Huyền Ký của Đức Phật truyền theo dòng Thiền Tông, trong đó có pháp môn Thiền Tông đặc biệt này và có dạy chúng tôi 4 phần như sau:

1- Năm mươi năm sau, các con tuần tự viết ra sách nói về pháp môn Thiền Tông học này.

2- Phải xin phép Nhà Xuất bản để xuất bản hợp pháp.

3- Các con tuần tự viết ra có đầu có đuôi về pháp môn Thiền Tông học này, để độc giả họ dễ hiểu.

4- Khi sách xuất bản được 10 năm, đã có nhiều người hiểu thì các con phải xin phép Ban Tôn giáo và Giáo hội Phật giáo địa phương, xin công bố tập Huyền Ký này ra. Trước, để pháp môn Thiền Tông của Đức Phật dạy ai ai cũng biết. Sau, những vị tu theo đạo Phật, nếu có vị nào tu sai thì vị đó tự sửa lại.

Vâng lời Thiền Sư ni Đức Thảo, nên bắt đầu 2006 chúng tôi tuần tự viết ra 10 quyển sách nói về pháp môn Thiền Tông học này. Quyển sau cùng là quyển Huyền Ký của Đức Phật truyền theo dòng Thiền Tông. Quyển này, chúng tôi thấy có 3 phần mà Đức Phật dạy rất thực tế và Khoa học, gồm:

– Một là: Đức Phật dạy tại sao có Con người, có Trái đất này, và có Nhân quả Luân hồi?

– Hai là: Đức Phật dạy Công thức Giải thoát ra ngoài Quy luật Nhân quả Luân hồi của Trái đất này.

– Ba là: Đức Phật dạy tại sao Con người bị mê tín?

Vì 3 phần quá đặc biệt như nói ở trên, nên ngày 10-04-2017, Ban Quản trị chùa Thiền Tông Tân Diệu chúng tôi có đơn đề nghị Ban Tôn giáo thuộc Sở Nội vụ tỉnh Long An, cho phép chúng tôi Công bố tập Huyền Ký của Đức Phật truyền theo dòng Thiền Tông này ra, được Ban Tôn giáo thuộc Sở Nội vụ tỉnh Long An chuyển đơn của chúng tôi đến 4 nơi như sau:

1- Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Long An.

2- Phòng Nội vụ huyện Đức Hòa, tỉnh Long An.

3- Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam liên huyện Đức Hòa và Đức Huệ.

4- Ủy ban Nhân dân xã Tân Mỹ.

Có đề nghị 4 Cơ quan này hướng dẫn Ban Quản trị chùa Thiền Tông Tân Diệu chúng tôi, thực hiện đúng theo tinh thần Nghị định 92/2012/NĐ-CP, ngày 08-11-2012, của Thủ tướng Chính phủ. Nghị định 92 của Thủ tướng Chính phủ có qui định 4 cấp được cấp phép sinh hoạt Tôn giáo như sau:

– Một là Phường hay Xã.

– Hai là Quận hay Huyện.

– Ba là Tỉnh hay Thành phố trực thuộc Trung ương.

– Bốn là Trung ương.

Xét về trường hợp xin Công bố tập Huyền Ký của Đức Phật truyền theo dòng Thiền Tông mà chùa Thiền Tông Tân Diệu chúng tôi xin Công bố ra, do 2 Nhà Xuất bản Tôn Giáo thuộc Văn phòng Thủ tướng Chính phủ và Nhà Xuất bản Hồng Đức thuộc Hội Luật gia Việt Nam cho xuất bản, “-” xin cấp phép xin Công bố tập Huyền Ký của Đức Phật truyền theo dòng Thiền Tông ở cấp Xã là phù hợp nhất, nên Ủy ban Nhân dân xã Tân Mỹ đứng ra cấp phép cho Ban Quản trị chùa Thiền Tông Tân Diệu chúng tôi xin Công bố tập Huyền Ký này ra. Ban Quản trị chùa Thiền Tông Tân Diệu chúng tôi xin chân thành cảm ơn Ủy ban Nhân dân xã Tân Mỹ rất nhiều.

Chúng tôi cũng xin trình bày cho quý vị được rõ, tập Huyền Ký của Đức Phật truyền theo dòng Thiền Tông có 3 cái lợi lớn cho bản thân Người tu Thiền Tông cũng như lợi ích cho Quốc gia Việt Nam thân thương của chúng ta:

1- Đức Phật dạy Đạo có 6 Pháp môn tu. Nếu vị nào tu 01 trong 6 Pháp môn của Đức Phật dạy mà sai, nhờ tập Huyền Ký này mà chỉnh sửa lại cho đúng.

2- Vị nào Mê tín, đọc được tập Huyền Ký này, thì sẽ bỏ Mê tín ngay. Để người xung quanh không chê Người mình là người mê tín!

3- Thiền Sư ni Đức Thảo có dạy: Người mê tín nhiều quá thì trở thành là Người cuồng tín!

– Thiền Sư ni Đức Thảo cũng có dạy rất rõ:

+ Người mê tín, làm gì cũng sai, thường hay vi phạm Luật pháp, bộ Luật Tín ngưỡng Tôn Giáo Việt Nam, có khi bị phạm pháp đến An ninh Quốc gia thân thương của mình mà họ không biết.

+ Còn Người quá cuồng tín, chắc chắn bị những phần tử sau đây lợi dụng:

1- Người khôn lanh họ lợi dụng cuồng tín của mình, họ rút bòn rút tiền của mình.

2- Người có ý đồ không tốt họ lợi dụng, lợi dụng cuồng tín của mình, họ xúi mình làm bậy.

3- Người có mưu đồ tham vọng, họ lợi dụng cuồng tín của mình, bắt mình làm bình phong để họ làm những chuyện hại nước, hại dân.

Chúng tôi trích ra vài ý trong tập Huyền Ký của Đức Phật truyền theo dòng Thiền Tông học này ra để cho nhiều người cùng biết. Nên Ban Quản trị chùa Thiền Tông Tân Diệu chúng tôi xin mới Công bố tập Huyền Ký của Đức Phật truyền theo dòng Thiền Tông này ra để nhiều người biết, nên mới có buổi Lễ như ngày hôm nay.

Phần tuyên bố lý do của Ban Quản trị chùa Thiền Tông Tân Diệu chúng tôi là đến đây là hết. Xin cảm ơn quý vị đã lắng nghe.

Vâng. Xin cảm ơn Thiền gia Nguyễn Nhân. Mời Thiền gia trở về chỗ cũ.

Tiếp theo là giới thiệu thành phần đại biểu tham dự buổi Lễ ngày hôm nay. Chúng tôi xin trân trọng được giới thiệu:

– Về phía Giáo hội Phật giáo Việt Nam, gồm có sự tham gia của:

+ Đại đức Thích Chánh Hòa, đại diện Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam liên huyện Đức Hòa, Đức Huệ.

+ Đại đức Thích Chánh Học, chùa Bảo Quang Tự, Đà Lạt.

– Về phía lãnh đạo Chính quyền, có sự tham dự của:

+ Ông Nguyễn Văn Lâu, Chủ tịch Mặt trận Ủy ban Nhân dân xã Tân Mỹ.

+ Ông Hồ Cư, Phó Phòng Nội vụ huyện Đức Hòa.

– Về phía báo đài có sự tham dự của:

+ Nhà báo Nguyễn Thúy Nga, đài Truyền hình Trung ương.

+ Báo Sài Gòn Giải Phóng.

+ Báo Lao động Xã hội.

+ Báo Pháp luật Xã hội.

+ Báo Du Lịch.

+ Báo điện tử Dân Sinh.

+ Báo Doanh Nhân Đương Thời.

+ Báo Pháp Luật thành phố Hồ Chí Minh.

+ Báo MêKông.

+ Báo Việt Nam Media.

+ Báo Gia đình Việt Nam.

+ Báo Người Lao Động.

+ Báo Khoa học phổ thông.

+ Và Tạp chí Pháp Luật Việt Nam.

– Về phía Tổ đình chùa Thiền Tông Tân Diệu chúng tôi có:

+ Thiền gia, Soạn giả Nguyễn Nhân, Viện chủ Tổ đình chùa Thiền Tông Tân Diệu.

+ Thiền gia Anh Tuấn, Phó Viện chủ chùa.

+ Cùng toàn thể Ban Quản trị Tổ đình chùa Thiền Tông Tân Diệu.

+ Cuối cùng là tôi, Thiền gia Thu Ngà, người dẫn chương trình cho buổi Lễ hôm nay.

Tiếp nối chương trình là giới thiệu về dòng chảy Mạch nguồn Thiền tông. Xin mời tất cả quý vị cùng hướng về màn hình trước mặt, để xem một đoạn phim ngắn nói về dòng chảy Mạch nguồn Thiền tông, do tập thể Ban Quản trị Tổ đình chùa Thiền Tông Tân Diệu chúng tôi sưu tầm và trình bày. Xin mời các thành viên phụ trách Kỹ thuật cho chúng tôi xem những thước phim này. Xin mời.

DÒNG CHẢY MẠCH NGUỒN THIỀN TÔNG:

Mạch nguồn Thiền tông xuất phát từ nơi mặt bằng rộng lớn bên khu vườn dưới núi Linh Sơn của nước Ấn Độ vào khoảng năm 546 trước Tây lịch, khi đó Đức Phật đã 78 tuổi. Lúc này, Đức Phật Thích Ca đã dạy Kinh Diệu Pháp Liên Hoa xong và cũng là thời cơ truyền Bí mật Thiền tông cho Tổ vị thứ Nhất đã đến. Nên vào một buổi sáng mùa xuân nơi mặt bằng ấy, Đức Phật tập hợp đông đảo đồ chúng, bất ngờ tay Ngài rút lấy một cành hoa sen đang cắm trong bình và đưa lên. Đức Phật ngó từ phải qua trái, từ gần ra xa, tất cả mọi người ai ai cũng ngơ ngác, riêng Ngài Ma Ha Ca Diếp mỉm miệng cười. Đức Phật hỏi Ngài Ma Ha Ca Diếp:

Tất cả mọi người không cười, sao ông lại cười?

Ngài Ma Ha Ca Diếp trình với Đức Phật:

Kính bạch Đức Thế Tôn:

Nhờ Đức Thế Tôn tay cầm cành sen đưa lên, nên con đã nhận ra tánh Thấy chân thật rõ ràng của con, mừng quá nên con mỉm cười.

Đức Phật hỏi Ngài Ma Ha Ca Diếp:

Ông thấy như thế nào?

Ngài Ma Ha Ca Diếp không trả lời thấy như thế nào, mà tức thì Ngài trình thưa cùng Đức Phật bằng bài kệ 44 câu như sau:

Sen xuân nở tại Linh Sơn

Thiền hoa thanh tịnh ơn trên Phật đà

Ý Phật con đã nhận ra

Tánh Thấy, Ý Thấy, được qua Luân hồi.

 

Bao năm khổ hạnh con “thôi”

Sống với tánh Thấy, Luân hồi màng chi

Hoa sen con nhận tức thì

Niết bàn thanh tịnh tìm chi mệt người.

 

Phật ôi, con đã ngộ rồi

Thấy trong thanh tịnh là nơi quê nhà

Phật tánh con đã nhận ra

Khi Thấy, Ý Thấy vượt xa muôn trùng.

 

Tánh Thấy hết sức lạ lùng

Muôn đời ngàn kiếp lạ lùng mới hay

Thiền Thanh Đức Phật chỉ bày

Hôm nay thật sự nhận ngay tánh mình.

 

Nhận được con chỉ lặng thinh

Nở ra nụ cười, vui lắm Phật ôi!

Trước kia Phật dạy con “Thôi”

Mà “Thôi” không được Luân hồi con đi.

 

Hoa sen con thấy tức thì

Tự nhiên “Dứt” hết không chi nói lời

Nụ cười thay thế chữ “Thôi”

Để trình Đức Phật đôi môi thay lời.

 

Linh Sơn con đã rõ lời

Thiền Thanh con biết Luân hồi “Dứt” ngay

Trước huynh đệ, con trình bày

Môn Thiền Thanh tịnh khó ai nhận liền.

 

Mấy ngàn người bỏ tu riêng

Dụng công tìm kiếm khắp miền sơn lâm

Nhờ con lặng lẽ âm thầm

Bất ngờ nhận được không lầm chuyển luân.

 

Hôm nay thật sự con mừng

Mừng vì sinh tử đã “Dừng” với con

Linh Sơn con quyết lòng son

Giữ môn Thiền học thường còn Thế gian.

 

Hễ ai muốn hết gian nan

Chỉ cần thanh tịnh mới sang quê nhà

Lòng con xin nói hết ra

Cảm ơn Đức Phật con xa Luân hồi.

 

Thiền Thanh kỳ diệu Phật ôi!

Chỉ cần thanh tịnh Luân hồi bỏ con

Con nay kính nguyện lòng son

Truyền môn Thiền học được còn mai sau.

Sau khi nghe Ngài Ma Ha Ca Diếp trình 44 câu kệ xong, Đức Phật nói với các vị Tỳ kheo và đại chúng:

Này các vị Tỳ kheo và đại chúng:

Hôm nay, Như Lai kiểm Thiền Thanh Tịnh bằng cành hoa sen, 1.250 các ông, duy nhất chỉ có ông Ma Ha Ca Diếp nhận ra được “Chánh pháp nhãn tạng. Niết bàn diệu tâm”. Đây là pháp môn mầu nhiệm mà Như Lai dạy nơi Thế giới này.

Như Lai dạy rõ pháp môn Thanh Tịnh Thiền này được lưu truyền như sau:

1- Việc truyền Thiền Thanh Tịnh này, đúng 15 ngày sau, Như Lai sẽ làm lễ truyền Thiền Thanh Tịnh này cho ông Ma Ha Ca Diếp, để thay Như Lai dạy pháp môn Thiền Thanh Tịnh này, sau khi Như Lai diệt độ.

2- Ông A Nan Đà và các đệ tử lớn của Như Lai cũng như đại chúng thiết lập bàn hương và phẩm vật để Như Lai làm lễ truyền Thiền Thanh Tịnh trước sự chứng minh của Mười phương Chư Phật, các ông hãy tựu hội về cho đầy đủ.

Vì sao các ông phải tựu hội?

Vì đây là buổi lễ truyền Thiền Thanh Tịnh đầu tiên, cũng đồng nghĩa dòng chảy của Mạch nguồn Thiền Thanh Tịnh của Như Lai dạy đã khởi đầu tại đây. Buổi lễ này, Như Lai đã truyền trao lại y, bát và gói kệ Huyền ký của Đức Phật trao cho ông Ma Ha Ca Diếp để làm tín vật và phó chúc cho ông làm Tổ sư Thiền Thanh tịnh đời Nhất. Sau đó, Tổ Ma Ha Ca Diếp truyền Tổ vị lại cho Ngài A Nan Đà làm Tổ Thiền tông đời thứ Hai. Mạch nguồn Thiền Thanh Tịnh từ Tổ đời thứ Hai trở đi được đổi danh là Thiền Tông.

Vì sao phải đổi danh như vậy?

Vì pháp môn Thanh Tịnh Thiền này bắt đầu khởi dòng Thiền của nó, tức nó được truyền theo Tông Pháp Thiền rõ ràng, lần lượt Tổ trước truyền cho Tổ sau là các Ngài: Thương Na Hòa Tu, Ưu Ba Cúc Đa, v.v… Mạch nguồn Thiền tông dần chảy xuôi về miền Nam nước Ấn Độ theo đường bộ. Ở nước Ấn Độ này chảy qua 28 đời Tổ. Vị Tổ sư Thiền tông đời thứ Hai mươi tám là Tổ Bồ Đề Đạt Ma, Ngài sinh sau Đức Phật nhập Niết bàn 1.202 năm, ở nước Nam Ấn. Cha là Bồ Đề Anh Đa vua nước này. Mẹ Ngài là Hoàng hậu Chi Hương Phấn. Ngài là Hoàng tử thứ ba. Ngài rất thông minh và có tài hùng biện không ai bằng. Đến khi Ngài đạt được Bí mật Thiền tông, vị Tổ đời thứ Hai mươi bảy là Bát Nhã Đa La đã trao lại các gói tín vật của Đức Phật cho Ngài. Đến đời này, Đức Phật có dạy trong Huyền Ký rằng: Ngài Bồ Đề Đạt Ma phải gánh vác sứ mạng Tổ sư Thiền tông của mình truyền sang phương Đông.

Sau khi nhìn thấy quyển Huyền Ký của Đức Phật, vua Cha Bồ Đề Anh Đa nói:

Hôm nay, Trẫm tận mắt nhìn thấy lời Huyền ký của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, Trẫm có 4 ý như sau:

1- Trẫm chấp thuận con Trẫm là Thái tử Bồ Đề Đạt Ma sang phương Đông truyền pháp môn Thiền Tông mà Như Lai dạy nơi Thế giới này.

2- Trẫm cung cấp cho Thái tử Đạt Ma 12 người, theo Thái tử phụ giúp làm công việc này, cũng như lo cho Thái tử khi ở nước ngoài một mình.

3- Trẫm yêu cầu Tổ Bát Nhã Đa La truyền Bí mật Thiền tông này tại Hoàng cung, để Trẫm và Hoàng hậu cũng như quan, quân và những người trong Hoàng tộc chứng kiến. Trẫm sẽ thiết lập một đài Thiền Tông thật là nguy nga để kỷ niệm pháp môn Thiền Tông học này từ giã nước Ấn.

4- Trẫm và Hoàng hậu cũng như nhiều người trong Hoàng tộc hiện theo đạo Ba La Môn, ngày truyền Bí mật Thiền tông cho Hoàng tử Bồ Đề Đạt Ma cũng là ngày Trẫm, Hoàng hậu xin quy y Tam bảo. Tổ đứng ra quy y cho Trẫm và Hoàng hậu. Còn việc xả giới đạo Bà La Môn, ngày ấy do đại Giáo sỹ Uất Phương Thinh xả giới cho Trẫm.

Đúng 8 giờ sáng mùng 8 tháng 4 năm Bính Dần, tại lễ đài Thiền Tông, nơi đại sảnh hoàng cung nước Nam Ấn, Đức vua, Hoàng hậu cũng như quan, quân và những người có mặt đều quỳ gối trước Tôn tượng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, để Tổ Bát Nhã Đa La tiến hành buổi Lễ truyền Bí mật Thiền tông cho Ngài. Buổi Lễ được tổ chức rất long trọng. Khi Tổ Bát Nhã Đa La vừa đọc 52 câu kệ truyền Thiền tông cho Ngài Bồ Đề Đạt Ma xong, Nhà vua và Hoàng hậu cũng như những người trong Hoàng tộc hết sức vui mừng, riêng Đức vua Bồ Đề Anh Đa đứng lên cảm ơn Tổ Bát Nhã Đa La và đọc lên bài thơ 24 câu tiễn con và đoàn tùy tùng xuống thuyền về phương Đông như sau:

Thiền Tông khởi đến phương Đông

Giúp người Giác ngộ Thiền tông Phật truyền

Con đi mong được bình yên

Mau mau tìm Người truyền riêng pháp Thiền.

 

Mẹ Cha gần sắp quy thiên

Con dẫn Nguồn Thiền của Phật Thích Ca

Mẹ Cha nay tiễn con ra

Bến sông Nhật Quý để ra biển trời.

 

Cha Mẹ dạy con mấy lời

Không được phụ lời của Đấng Từ Bi

Thiền tông bí mật diệu kỳ

Phải truyền cho được Người trì phương Đông.

 

Dù cho gian khổ long đong

Cũng phải một lòng truyền Thiền Thích Ca

Cha đọc Huyền Ký hiểu ra

Lời dạy Phật đà sau rốt là con.

 

Nước Ấn từ nay không còn

Pháp Thiền Thanh tịnh không còn ở đây

Trước đi, phải tạ ơn Thầy

Cùng là Cha Mẹ tại đây xa lìa.

 

Cha Mẹ sẽ về bên kia

Các con ở lại truyền kia Phật đà

Con phải nghe lời Thích Ca

Làm tròn sứ mạng, Mẹ Cha vui mừng.

Khi Đức vua đọc 24 câu thơ tiễn Ngài Bồ Đề Đạt Ma dẫn nguồn Thiền tông về phương Đông xong, ai ai cũng ngậm ngùi và khóc.

Từ miền Nam nước Ấn, Tổ Bồ Đề Đạt Ma đưa Mạch nguồn Thiền tông vượt biển Nam Ấn vào nước Tích Lan, tức Sri Lanca ngày nay. Từ nước Tích Lan, Mạch nguồn Thiền tông vượt Ấn Độ Dương vào cực Tây nước Nam Dương (Indonesia). Theo eo biển Malacca, tức eo Hồng, vào biển Đông Việt Nam. Sau đó trú bão ở Côn Sơn, Việt Nam. Để rồi trực chỉ vào huyện Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh. Từ đây, cặp bờ biển Việt Nam ghé Vũng Tàu, Nha Trang, Qui Nhơn, Thừa Thiên Huế. Được tiếp lương thực sau cùng tại Việt Nam, trực chỉ ra biển Đông và cực Nam đảo Hải Nam nước Trung Hoa. Lần theo bờ biển Đông đảo Hải Nam, nhận lương thực sau cùng tại đảo này, rồi vượt biển Đông vào cửa sông Trường Giang, chảy ngược dòng Trường Giang vào nước Lương. Khi vào nước này, Tổ Bồ Đề Đạt Ma chỉ nói ít danh từ Thiền Tông. Tuy nhiên, chủ nước Lương, tức vua Lương Võ Đế, lại không chấp nhận, còn cho Tổ là ông Thầy bị điên! Tổ suýt mất mạng!

Do vậy, Mạch nguồn Thiền tông phải chảy xuôi dòng Trường Giang ra biển Đông, chảy ngược về phương Bắc. Khi vào đất Bắc Ngụy, tức Bắc Kinh ngày nay, dừng tại động Thiếu Thất, nơi chùa Thiếu Lâm, và ngừng chảy tại đây đến 9 năm.

Chín năm sau, có vị Tráng sỹ kiên cường, quên thân mạng mình, danh gọi Huệ Khả, nhận được Mạch nguồn Thiền tông từ Tổ Bồ Đề Đạt Ma kế vị Tổ sư Thiền tông đời thứ Hai mươi chín. Người Trung Hoa xưa xem Tổ Bồ Đề Đạt Ma là vị Tổ sư Thiền tông đầu tiên của nước họ. Do vậy, Tổ thứ Hai là Ngài Huệ Khả được gọi là Nhị Tổ Huệ Khả. Rồi từ đây, Mạch nguồn Thiền tông chia ra nhiều nhánh chảy đi khắp nước Trung Hoa rộng lớn.

Dòng chảy của Mạch nguồn Thiền tông có 3 hướng chảy quan trọng nhất:

1- Mạch nguồn Thiền tông chảy về hướng Đông Bắc, vượt biển Hoàng Hải đến nước Cao Ly, nay là Triều Tiên và Hàn Quốc.

2- Mạch nguồn Thiền tông chảy vượt biển Đông Trung Hoa, chảy đến nước Phù Tang, nay là Nhật Bản.

3- Dòng chảy mạnh nhất là chảy xuôi về miền Nam nước Trung Hoa. Ở Trung Hoa này, chảy thêm 5 đời Tổ. Đến đời Tổ thứ Ba mươi ba là Ngài Lư Huệ Năng nhận nhiệm vụ vị Tổ cuối cùng của Trung Hoa. Ngài là Tổ sư Thiền tông đời thứ Sáu ở nước này, nên được gọi là Lục Tổ Huệ Năng.

May mắn thay, vào thời Tổ Huệ Năng có Đức vua Võ Tắc Thiên, Bà đã ngộ Thiền từ Tổ Huệ Năng, sự tích như sau:

Ngày xưa, vua Võ Tắc Thiên trị vì đất nước Trung Hoa rộng lớn, khi nhà vua lớn tuổi, cũng mắc phải bệnh của người cao tuổi. Một hôm nhà vua hỏi quốc sư Thần Tú:

Trẫm mắc phải bệnh thân của người lớn tuổi, trong thiên hạ có người bảo trị bệnh bằng cách uống trà đạo, vậy quốc sư có thể chỉ cho Trẫm được không?

Quốc sư Thần Tú biết nhà vua là vị vua có trình độ Thiền học cao, vì có lần nhà vua hỏi quốc sư về đạo Nhất Tự Thiền, nhưng ngài không trả lời được. Lần này, nhà vua hỏi về trà đạo trị bệnh, quốc sư không dám trả lời, vì ngài thật sự không hiểu nổi thâm sâu của trà đạo, nên ngài tâu với nhà vua là:

Phương Nam, có Thầy Huệ Năng là vị Thầy có thể chỉ cách uống trà đạo để trị hết bệnh thân và bệnh tâm.

Nhà vua liền sai ngài Tiết Giảng xuống phương Nam để hỏi Thầy Huệ Năng.

Thầy Huệ Năng không dạy mà chỉ đọc có 9 chữ để ngài Tiết Giản đem về trình lên cho nhà vua, 9 chữ ấy như sau:

“Không trà, không tâm, biết uống là hết bệnh”.

Khi nhà vua đọc 9 chữ xong liền hiểu cách uống trà đạo để trị bệnh thân và tâm. Nên nhà vua liền ứng khẩu ngâm bài thơ 4 câu:

Tay bưng lấy một tách trà

Trà vừa vô miệng hết đà bệnh tâm

Nhờ Thầy chỉ dẫn rất thâm

Nên nay Trẫm thấy bệnh thân không còn.

Đây là 4 câu thơ của vua Võ Tắc Thiên uống trà đạo đã khỏi bệnh thân và bệnh tâm. Nhà vua đã nhận ra cái biết uống chân thật của bà vẫn còn đó, không bao giờ mất. Cái biết uống này không liên quan gì đến trà và tâm của bà cả. Người bình thường không thể nào hiểu nổi điều này. Do vậy, đến khi hết duyên, bà an nhiên tự tịch diệt.

Vào năm 712, tại chùa Thiền tông Quốc Ân, thuộc huyện Tân Châu, tỉnh Quảng Châu, Trung Hoa, Tổ Huệ Năng đã xin phép vua Võ Tắc Thiên cho công bố quyển Huyền Ký của Đức Phật truyền theo dòng Thiền tông. Nhà vua đã chấp thuận và cho người sao chép quyển Huyền Ký ra thành 600 quyển, đồng thời cho phổ biến rộng khắp.

Tuy nhiên, Đức Phật có dạy trong Huyền Ký của Ngài, sau đời Tổ thứ Ba mươi ba này, thì dòng Thiền tông không được truyền nữa, bát ăn cơm của Như Lai phải được chôn xuống đất, một nửa y của Như Lai được chôn chung với bát ăn cơm và gói kệ Huyền ký gốc, một nửa y còn lại được quấn xung quanh nhục thân của Huệ Năng.

Vì sao vậy?

Vì thời này có quá nhiều người ngộ đạo thì không thể truyền riêng cho ai được. Hơn nữa, Tổ Huệ Năng là người không biết chữ nên không đọc bài kệ truyền Thiền. Như vậy, chỉ có những quyển Huyền Ký của Đức Phật truyền theo dòng Thiền tông mà vua Võ Tắc Thiên cho sao chép ra được tiếp tục truyền đi.

Mạch nguồn Thiền tông tiếp tục chảy mạnh xuôi về Nam của Trung Hoa, qua biên giới Việt – Trung, vào tỉnh Vĩnh Phúc, qua Bắc Ninh rồi đến thành Thăng Long, tức Hà Nội ngày nay.

Vào năm 1150, vua Trần Thái Tông, ông nội của vua Trần Nhân Tông, được sứ Trung Hoa tặng cho quyển Huyền Ký của Đức Phật truyền theo dòng Thiền tông, mà Tổ Huệ Năng đã cho công bố lần thứ 1 vào năm 712.

Mãi đến thế ký thứ 13, ở thành Thăng Long, Ngài Tuệ Trung Thượng Sỹ là cậu của vua Trần Nhân Tông đã may mắn có được quyển Huyền Ký từ vua Trần Thái Tông. Tuy nhiên, Ngài cũng chưa nhận ra được Phật tánh của chính Ngài nên cũng không hiểu nổi trong ấy nói gì. Đến khi Đức vua Trần Nhân Tông đến hỏi đạo Ngài, Ngài cũng không biết nói sao, mà chỉ nói cho Đức vua nghe một câu: “Phản quan tự kỷ, bổn phận sự”. Tức, con hãy nhìn lại chính trong bản thân con xem sao, vì đó là gốc.

Câu nói này Đức vua nghe qua rồi để đó. Một hôm 9 giờ đêm Ngài đi ngủ, chợt nhớ lại câu nói ấy, Ngài thực hiện như lời Tuệ Trung Thượng Sỹ, bỗng bất chợt Ngài được rơi vào chỗ mênh mông, trống rỗng gần 1 canh giờ. Khi trở lại bình thường, Ngài có làm bài kệ 44 câu nói lên chỗ tuyệt diệu ấy mà chúng tôi cũng đã có nêu trong quyển “Cuộc đời và ngộ đạo của 36 vị Tổ sư Thiền tông Ấn Độ – Trung Hoa – Việt Nam”.

Bài kệ 44 câu như sau:

Thiền Tông quả thật diệu kỳ

Mấy năm tìm kiếm không gì thấy đâu

Tuệ Trung chỉ nói mấy câu

Thực hành đúng vậy nhận xâu chuỗi vàng.

 

Rơi vào Bể tánh rõ ràng

Hiểu – Nghe – Thấy – Biết, rõ ràng không ngăn

Ngày xưa Đức Phật dạy rằng

Chỉ Tâm thanh tịnh nhận rằng Quê xưa.

 

Dù cho dụng công sớm trưa

Đến già đến chết cũng chưa thấy gì

Chỉ cần thanh tịnh một khi

Rơi vào Bể tánh cái gì cũng xong.

 

Thiền Tông Phật dạy chữ “Không”

Không quán, không tưởng, không trông Niết bàn

Niết bàn là tịnh thênh thang

Nếu Tìm hay Kiếm vào đàng trầm luân.

 

Bí mật Thiền tông chỉ “Dừng”

Không theo Vật lý là “Dừng” lại ngay

Thiền Tông Đức Phật chỉ bày

Sống với thanh tịnh vào ngay Niết bàn.

 

Chỗ này Phật dạy rõ ràng

Không theo Vật lý là an muôn đời

Thiền Tông thanh tịnh thảnh thơi

Sống với Phật tánh muôn đời bình an.

 

Thiền Tông không phải lang thang

Lang thang Vật lý muôn ngàn khổ đau

Loài Người không biết nên vào

Vào trong Tam giới cái nào cũng vương.

 

Đức Phật nhìn thấy rất thương

Thương cho Nhân loại không đường thoát thân

Vì vậy Phật dạy tu dần

Đầu tiên Quán Tưởng chuyển dần Nói hay.

 

Khi nói dưới đất trên mây

Nói hoài không thoát dạy đây Kiếm Tìm

Kiếm Tìm để biết trên Thiên

Tìm ra cho được cũng miền trầm luân.

 

Sau cùng Đức Phật dạy “Dừng”

Luân hồi Sinh tử tức thì “Dừng” ngay

Ngày xưa Trẫm cứ tìm hoài

Nhờ Cậu Thượng Sỹ vào ngay Niết bàn.

 

Giờ đây Trẫm hết lang thang

Đi tìm đi kiếm đầu đàng về Quê

Không kiếm mà thấy đường về

Chỉ cần thanh tịnh về quê tức thì.

Khi 44 câu kệ Ngài viết ra xong, có đưa cho cậu Tuệ Trung Thượng Sỹ xem. Tuệ Trung xác nhận là Ngài đã nhận ra được Phật tánh thanh tịnh của chính Ngài. Tuệ Trung Thượng Sỹ thấy vậy, đã trao lại quyển Huyền Ký của Đức Phật truyền theo dòng Thiền tông cho nhà vua. Nhờ vậy, Đức vua Trần Nhân Tông biết được tất cả những gì là chân thật, những gì là huyễn hóa nơi Thế giới này, biết cách thức Giải thoát và trở về Phật giới. Nhân dân tôn Ngài là Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Tức Vị vua tu tập thành Phật. Do vậy, Ngài xứng đáng được xem là Tổ sư Thiền tông đời thứ Ba mươi tư, cũng là vị Tổ sư Thiền tông đầu tiên của Việt Nam. Ngài cũng đã có làm bài kệ 204 câu nói về dòng chảy của Mạch nguồn Thiền tông mà chúng tôi cũng đã có dịp nêu trong quyển “Cuộc đời và ngộ đạo của 36 vị Tổ sư Thiền tông Ấn Độ – Trung Hoa – Việt Nam”. 204 câu kệ này chúng tôi ghi lại nơi Báo Sài Gòn Mới, xuất bản vào năm 1958, bút danh người viết là Bút Trà, nơi mục “Các bài kệ Thiền tông Phật giáo”.

Sau đó, Tổ Trần Nhân Tông đã lên núi Trúc Lâm Yên Tử dạy đạo Thiền Tông, lập ra phái Trúc Lâm Yên Tử và truyền ra cho vị Tổ thứ 2 và 3 của Việt Nam là Ngài Pháp Loa và Huyền Quang, cho nên mới có danh từ “Tam Tổ Trúc Lâm Yên Tử”.

Đến đây, Mạch nguồn Thiền tông tiếp tục chảy xuôi về Nam, đến Huế rồi tạm ẩn 182 năm.

Sau đó, Mạch nguồn Thiền tông tiếp tục chảy xuôi về Nam. Mãi đến năm 1950, Mạch nguồn Thiền tông lại bùng lên tại “Đất Rồng” tại chùa Thiền Tông Tân Diệu tỉnh Long An. Thiền Sư ni Đức Thảo, Viện chủ chùa lúc bấy giờ, may mắn nhận lại được quyển Huyền Ký của Đức Phật truyền theo dòng Thiền tông. Bà cũng đã rơi vào chỗ mênh mông thanh tịnh của chính bà, nên Bà được xem là Sơ Tổ của dòng Thiền tông thời Mạt pháp này. Nhưng những năm ấy, đất nước đang chiến tranh, nên việc phổ biến pháp môn Thiền Tông không thể thực hiện được, nên Thiền Sư ni đã trao lại tập Huyền Ký cho Soạn giả Nguyễn Nhân là Viện chủ Tổ đình chùa Thiền Tông Tân Diệu ngày nay. Và Bà không quên căn dặn hậu nhân tiếp tục phổ biến pháp môn Thiền Tông này ra cho nhiều người cùng biết bằng bài kệ 24 câu:

Hoa Thiền nở tại Linh Sơn

Thầy đã nhận được quý hơn ngọc vàng

Quê hương chưa được bình an

Thiền Tông chưa được mở mang nơi này.

 

Các con ghi nhớ lời Thầy

Giang sơn nối lại nơi đây mọc Thiền

Vạn dân sum họp bình yên

Mạch chảy Nguồn Thiền phải phát bùng xa.

 

Lòng từ của Phật Thích Ca

Hai lăm thế kỷ hiện ra nơi này

Các con ghi nhớ lời Thầy

Đến đời Minh Triết nên xây Chùa Thiền.

 

Khởi đầu tuy có não phiền

Nhiều người muốn phá chớ phiền mà chi

Kim Cang giúp đỡ tức thì

Tiền Thầy, Thầy chỉ sau này chẳng lo.

 

Dù cho chùa nhỏ, chùa to

Miễn sao ghi lại để cho mọi người

Thiền Tông lợi ích mọi nơi

Nhiều người ngộ Đạo tươi cười Thiền Tông.

 

Chánh pháp nhãn tạng trong lòng

Niết bàn vi diệu hiện phồng nơi đây

Tiền Thầy, Thầy để gốc cây

Đến đời Minh Triết đem xây Phật đài.

Trước đó, vào năm 1952, Soạn giả Nguyễn Nhân cũng đã được tặng một quyển Huyền Ký khác từ Đông y sỹ Huỳnh Thạch, là chủ tiệm thuốc bắc hiệu Hoa Nam, tọa lạc tại số 82 đường Trần Quý, quận 11, Sài Gòn. Quyển Huyền Ký được ông Huỳnh Thạch dịch là quyển tái bản lần thứ 8, xuất bản năm Thìn 1952, được dịch từ quyển “Hải Triều Âm” tiếng Hoa do Nhà Xuất bản Bắc Kinh ở Trung Hoa, xuất bản đầu tiên vào mùa Xuân 1888, do soạn giả Khương Vũ Đại viết. Hai quyển Huyền Ký mà ông Huỳnh Thạch và Thiền sư Ni Đức Thảo, tặng Soạn giả Nguyễn Nhân có nội dung gần như tương tự nhau.

Vì sao ngày nay phải phổ biến rộng rãi Huyền Ký của Đức Phật cho nhiều người cùng biết mà không phải là những thời trước đó?

Xin thưa, vì ngày nay, loài Người đã Văn minh thật cao, họ không tin những gì chưa kiểm chứng, thiếu thực tế và khoa học, nên những gì nêu trong quyển Huyền Ký của Đức Phật truyền theo dòng Thiền tông được nhiều người chấp nhận. Đức Phật có nói ẩn ý về dòng chảy Mạch nguồn Thiền tông thời Mạt pháp trong 2 kinh:

1- Trong Kinh Kim Cang Đức Phật dạy: Sau khi Như Lai nhập Niết bàn 500 sau cùng, pháp môn Thiền Tông phải được nói rõ ra.

2- Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Đức Phật có nói ẩn ý ở 2 phẩm:

Một: Phẩm thứ 12: Đề Bà Đạt Đa: Nếu thời Mạt Thượng pháp khi nào Người nữ tại Đất Rồng nhận được quyển Huyền Ký và dạy thành Phật cũng chính là lúc bùng phát Mạch nguồn Thiền tông.

Hai: Phẩm thứ 15: Tùng Địa Dũng Xuất:

– Tùng có nghĩa là trùng lặp.

– Địa là đất.

– Dũng là mạnh.

– Xuất là xuất hiện.

Nói rõ ra: Tức một nơi có 2 lần bùng phát pháp môn Thiền Tông. Như vậy, nước ta là nơi duy nhất may mắn có 2 Người nhận được quyển Huyền Ký của Đức Phật là vua Trần Nhân Tông và Thiền sư Ni Đức Thảo.

Ngày nay, hậu nhân đã y theo lời dặn dò của Thiền sư Ni Đức Thảo cũng như lời dạy của Đức Phật trong quyển Huyền Ký đã xây dựng chùa Thiền Tông Tân Diệu được như ngày hôm nay. Có thể nói, Ngôi Chùa thật bé nhỏ, khiêm tốn, nằm bình yên khép mình ở một nơi xa xôi, hẻo lánh, cụm đất đỏ xã Tân Mỹ, huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, thế nhưng, không thể phủ nhận được những giá trị tuyệt vời của Ngôi Chùa mang lại. Giáo pháp Thiền tông của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã dạy từ hơn 25 thế kỷ qua, nay đã được lan truyền rộng khắp 5 Châu. Đâu đó, trong tâm khảm của mỗi người tu Thiền Tông trên khắp Thế giới vẫn còn nghe rất rõ Giáo pháp Giác ngộ và Giải thoát của Đức Thế Tôn từ hơn 2.500 năm trước mà cứ ngỡ như mới hôm qua.

Xin cảm ơn Ban Quản trị Tổ đình chùa Thiền Tông Tân Diệu đã cho chúng tôi xem những thước phim quý giá này, giúp chúng tôi ngày nay hiểu rõ hơn nguồn gốc của pháp môn Thiền Tông mà Đức Phật đã Huyền ký cách đây 2.560 năm. Một lần nữa xin cảm ơn!

Tiếp theo, là phần Tham luận về pháp môn Thiền Tông của 2 vị Giác ngộ Thiền tông.

Đầu tiên, xin mời Phật gia Vũ Thị Hiếu trình bày phần tham luận của mình với đề tài “Sự thật nơi Trái đất” này. Xin mời Phật gia.

Kính chào tất cả quý vị!

Tôi tên là Vũ Thị Hiếu, sinh năm 1979, cư ngụ tại tổ 2, khu Lãm Làng, phường Vân Dương, thành phố Bắc Ninh, tỉnh Bắc Ninh.

Thật vui mừng biết bao khi được về tham dự buổi Lễ hôm nay!

Sau đây, tôi xin trình bày tham luận của mình với nội dung “Sự thật nơi Trái đất”.

Một: Nhìn lại quá khứ:

Từ hơn 300 năm trước Công Nguyên, nhà hiền triết Hy Lạp Aristotle, sinh năm 384, mất năm 322, đã mô tả Trái đất là trung tâm của Vũ trụ, ai cũng tin tưởng những điều ông nói là chân lý.

Mãi đến thế kỷ 16, Nicolaus Copernicus, người Ba Lan, sinh năm 1473, mất năm 1543, cho rằng Trái đất chuyển động quanh Mặt trời.

Năm 1609, nhà bác học người Ý Galilei, sinh năm 1564, mất năm 1642, tự chế được kính viễn vọng, ông đã dùng nó để quan sát thấy các Thiên thể vận động và tin tưởng quan điểm của Copernicus là đúng. Ông viết trong sách của mình rằng: Tất cả không phải là tĩnh tại, Mặt trời đang quay, Trái đất cũng đang quay. Trái đất không chỉ quay quanh Mặt trời mà còn tự quay quanh mình nó theo một trục. Nhưng những người thời đó họ không chấp nhận được sự thật như vậy, vì hiểu biết của ông trái ngược với đức tin của họ.

Còn hiện nay, khi Khoa học Kỹ thuật phát triển không ai còn nghi ngờ được sự thật là Trái đất quay quanh Mặt trời và tự quay quanh trục của nó.

Qua đó, chúng ta thấy rằng, không phải bất cứ điều gì mà đa số mọi người đều thừa nhận nó trong suốt một thời gian rất dài luôn là chân lý, sự thật vẫn luôn luôn là sự thật dù cho con người có chịu thừa nhận nó hay không thừa nhận nó.

Hai: Thắc mắc cần giải quyết:

Trước đây, bản thân trong tôi có luôn có vô vàn thắc mắc, tôi đã hỏi nhiều người về những thắc mắc đó nhưng không ai giúp tôi có lời giải đáp thỏa đáng cả, xin lê hoài những đại diện như sau:

1- Ở nước Ấn Độ có vị Thái tử Tất Đạt Đa đã từ bỏ ngôi vua vào rừng sâu để tự mình tầm đạo. Thời nước ta, có Đức vua Trần Nhân Tông, sau khi Ngài lãnh đạo quân dân ta dẹp giặc Nguyên – Mông, Ngài đã từ bỏ ngôi vua tu theo đạo Phật. Vậy thì, vì nguyên do gì mà các Ngài làm chuyện ngược đời như vậy? Phải chăng có cái gì đó quý giá hơn?

2- Tôi thấy, khi đi lễ ở Chùa, Nhà thờ, Đình, Đền hay Miếu, mọi người hay cầu xin Phật, Chúa, Thánh, Thần ban ơn, ban phước, che chở cho mình và người thân. Vậy, sự thật có hay không có Phật, Tiên, Thánh, Chúa, Trời, Thần, Ma, Quỷ?

3- Tôi vẫn thường nghe có người ngoài hành tinh, vậy sự thật có người ngoài Trái đất chúng ta sống hay không?

4- Khoa học ngày nay cho rằng, Con người được tiến hóa từ loài Vượn người, nhưng hiện nay đã có rất nhiều người đặt nghi vấn: Bây giờ cũng vẫn còn loài Vượn đó, sao nó không tiến hóa thành Người nhỉ? Vậy, sự thật về vấn đề này là sao đây?

5- Tôi cũng đã được nghe tin về Ngày Tận Thế, vậy sự thật Trái đất của chúng ta có bị hủy diệt không? Và nếu bị hủy diệt thì bởi nguyên nhân nào gây ra?

6- Càn khôn Vũ trụ như thế nào mà sao tôi thấy mông lung quá, Như vậy sự thật là như thế nào đây?

Ba: Hướng đi mới:

Tình cờ, tôi biết được Phật pháp qua mạng Youtube, thông qua xem và nghe những phim hoạt hình nói về Phật giáo, những kênh Đại thừa Phật giáo, Khuyên người niệm Phật, sau đó tôi đã tụng rất nhiều các kinh, như: Kinh Địa Tạng, Kinh Pháp Hoa, Kinh Đại Bát Niết Bàn, Kinh Kim Cang Thọ Mạng và Kinh Bát Dương. Hằng ngày, tôi dùng thời gian rảnh, thời gian tụng kinh vào buổi sáng sớm và tối khuya, thường niệm danh hiệu Phật A Di Đà, và đôi khi cảm nhận có hương thơm kỳ diệu thật lạ. Hàng tháng, tôi đến chùa tu theo Tịnh độ và nghe các Thầy giảng pháp, tham gia các buổi lễ hội hoa đăng, lễ An vị Phật, lễ cúng cầu an, cầu siêu, phóng sinh. Tuy cố gắng đều như vậy nhưng sâu thẳm trong tôi vẫn thấy những thắc mắc của mình chưa được giải quyết!

Bốn: Thắc mắc được giải đáp và còn hơn cả mong đợi!

Thật hạnh phúc và vui mừng không thể nói bằng lời khi tôi tình cờ nghe được đĩa “Cuộc đời và ngộ đạo của 36 vị Tổ sư Thiền tông Ấn Độ – Trung Hoa và Việt Nam” trên mạng, cảm giác mình như được mở toang cánh cửa đón ánh sáng tràn ngập, phá tan đi bóng tối mù mịt làm mình u mê bấy lâu nay. Kể từ đó tôi không xem hay đọc thuộc kinh như trước nữa, mà chuyển qua xem các video khác về Thiền Tông. Lần dò tìm kiếm tôi biết được có 10 quyển sách và 10 đĩa viết về Thiền Tông của Soạn giả Nguyễn Nhân. Bộ Sách không những giúp tôi tự giải đáp được những thắt cùng nước mắt của mình, Bộ Sách còn giúp tôi giải đáp được những thắc mắc của mình từ bao lâu nay một cách hết sức Khoa học và thuận lý mà còn hơn cả mong đợi, giúp tôi nhận ra Sự thật nơi Trái đất này, nhận ra chân giá trị được làm Người của mình và biết được rằng bất cứ ai cũng có khả năng làm được điều đó nếu chịu nhận Phật tánh của mình mà không phải tu sửa gì cả, vì Phật tánh nó vốn là Chân như. Lục Tổ Huệ Năng nói: Nó vốn không phải là một vật thì sao lại phải tu hay sửa gì chứ.

Pháp môn Thiền Tông giúp tôi phân biệt được Đâu là chánh, Đâu là tà đạo? Tôi hiểu ra trước đây mình tu theo Phật mà không hiểu lời Ngài trình dạy, vì mình tu theo Phật mà làm sai với lời Ngài khiến nhiều nhà Trí thức và Khoa học chê cười Đạo Phật là Đạo Mê tín, trong khi đó Đạo Phật là Đạo Trí tuệ và Khoa học. Vì đọc tụng kinh Phật mà không hiểu ẩn ý Kinh viết, còn luôn tự hào cho mình là Phật tử chân chính nữa, hàng ngày tiêu tốn không ít thời gian cho việc tụng kinh, cầu lạy, bỏ ra tiền bạc làm chuyện Mê lầm mà bản thân không hay, không biết, lại còn rủ nhiều người tin và làm theo mình nữa!

Pháp môn Thiền Tông còn giúp tôi hiểu ra, việc cầu xin, cúng lạy Phật, Thánh, Thần ban ơn, ban phước là điều vô nghĩa, giúp tôi hiểu trong mỗi Con người ai cũng đều sẵn có Phật tánh quý giá hơn cả ngọc vàng châu báu mà mọi người thường không nhận, mà lại ham đi làm thuê, làm mướn, làm kẻ hầu cho người khác, thật cực nhọc và vất vả biết bao! Từ đó mới hiểu được vì sao Đức vua Trần Nhân Tông bỏ ngôi vua để tu theo Thiền Tông. Khi Ngài đã nhận ra Phật tánh của chính mình, Ngài đã thấu triệt lời dạy của Đức Phật: Dù làm vua cõi Người hay làm chúa cõi Trời, thì chức vua hay chúa này đối với người nhận ra Phật tánh của mình chỉ là kẻ bần cùng nghèo khó mà thôi!

Pháp môn Thiền Tông giúp tôi biết được trong 49 năm, Đức Phật dạy tất cả 6 Pháp môn tu, giúp tôi hiểu được cơ bản cấu trúc Càn khôn Vũ trụ, tổ chức trong một Hệ Mặt trời gọi là Tam giới, hiểu về tổ chức Phật giới, biết tánh Phật là gì, giúp tôi hiểu quá trình hình thành Trái đất, nhiệm vụ của Trái đất, quy luật vận hành của Trái đất, biết được có 6 loài sống trên Trái đất gồm: loài Thần, loài Người, loài Súc sinh, loài Ngạ Quỷ, loài Địa ngục và loài Thực vật. Loài nào cũng có tánh riêng của loài đó và sự sống tuân theo quy luật sống của Loài mình. Bản thân mỗi Con người tự tạo ra Nghiệp để đi trong Luân hồi hay tạo ra Công đức để Giải thoát, chứ không có bàn tay quyền năng nào khác quyết định thay người đó được, kể cả Đức Phật, tùy theo Tần số do mình đã phát ra khi sống mà khi mất thân Người nghiệp do mình đã tạo sẽ quyết định thân kế tiếp. Nghiệp Phước Dương thì được thành Tiên hay Trời. Nghiệp Phước Âm thì thành Thần hay Người giàu sang. Nghiệp Ác thì làm Súc sinh, họa kỳ Địa ngục, hay không rõ Giác ngộ và Giải thoát ra sao mà lại chỉ người khác Tu để giác ngộ và Giải thoát thì phải làm loài Thực Vật.

Ngoài ra, pháp môn Thiền Tông giúp tôi hiểu tánh Người hình thành như thế nào, cấu trúc tổng thể một Con người, biết được Giác ngộ là gì, muốn được Giác ngộ phải làm sao, biết Bồ Tát ở đâu và làm sao cứu khổ Con người, A La Hán ở đâu và làm gì, hiểu về Trung Ấm thân và nhiệm vụ là gì, v.v…

Đặc biệt nhất, quý giá nhất, là pháp môn Thiền Tông dạy Công thức Giải thoát, tức trở về Phật giới mà loài Người gọi là thành Phật, không thể nói hết bằng lời những lợi ích của pháp môn Thiền Tông, nhân đây, xin bày tỏ lòng biết ơn vô hạn tới Soạn giả Nguyễn Nhân đã cho ra đời những cuốn Sách tuyệt quý về Thiền tông. Có thể nói, sẽ là khiếm khuyết vô cùng lớn khi chúng ta mang danh là những người có trí thức Khoa học, những người hiểu biết, những con người Văn minh, hiện đại mà lại không tiếp nhận được Sự thật trên Trái đất thì có khác gì những người thời Galilei, không thừa nhận được sự thật rằng Trái đất quay xung quanh Mặt trời và xoay xung quanh trục của nó.

Tôi nhận thấy lợi ích của Pháp môn thật lớn lao, nếu tu đúng:

1- Với bản thân Người tu Thiền Tông:

– Hiểu biết.

– An vui.

– Không còn buồn, lo hay sợ hãi nữa.

– Bớt tham lam.

– Không còn mê tín dị đoan.

– Sống có trách nhiệm với chính bản thân.

– Làm việc có hiệu quả hơn.

– Sống chan hòa cùng thiên nhiên và con người.

2- Với Gia đình:

– Người tu Thiền Tông bỏ được cái tôi, nên gia đình luôn hòa thuận.

– Không mất thời gian, tiền của cho những chuyện không đâu.

– Có thời gian chăm sóc cho gia đình, nên gia đình luôn êm ấm.

3- Với Xã hội:

Người tu Thiền Tông là người công dân mẫu mực, vì luôn chấp hành nghiêm túc Pháp luật của Nhà nước, không vi phạm các tệ nạn do rõ thấu triệt Quy luật Luân hồi nơi Trái đất, do vậy góp phần giữ gìn an ninh trật tự, xã hội ổn định, xây dựng lối sống mới có văn hóa.

4- Đối với Quê hương, Đất nước:

Người tu Thiền Tông góp phần đưa Đất nước tiến lên cho kịp thời đại Khoa học Kỹ thuật phát triển, khiến Đất nước giàu mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh, loại bỏ được những hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan.

5- Đối với Giáo dục:

Pháp môn Thiền Tông giúp chuẩn hóa lại hệ thống kiến thức một cách khái quát tổng thể về Vũ trụ, Hệ Mặt trời, Trái đất, Con người, muôn loài, nhờ đó, giải thích được các hiện tượng xảy ra trong tự nhiên cũng như xã hội một cách hết sức Khoa học và thuận lý, đồng thời, góp phần Giáo dục Nhân cách Con người hoàn thiện nhất, vì Thiền Tông giúp Con người tự nhìn lại chính mình mà tự sửa đổi bản thân, chứ không phải tuân theo những quy định mang tính ép buộc.

6- Đối với Kinh tế, Chính trị:

– Người tu Thiền Tông góp phần đưa kinh tế đất nước phát triển vì họ làm việc nghiêm túc, có chất lượng cao trong công việc.

– Pháp môn Thiền Tông xóa đi Mê tín dị đoan.

– Người tu theo Thiền Tông biết bảo vệ chủ quyền dân tộc mình, vì hiểu đúng giá trị của độc lập, tự do, nên tình hình kinh tế, chính trị của đất nước luôn ổn định và được giữ vững.

7- Đối với các Nhà Khoa học:

Pháp môn Thiền Tông cung cấp tư liệu Khoa học đầy đủ nhất, rõ thông nhất.

8- Đối với Người muốn Giác ngộ:

Pháp môn Thiền Tông giúp họ hiểu đúng và đầy đủ nhất lời Đức Phật muốn chỉ dạy nơi Thế giới này.

9- Đối với Người muốn Giải thoát:

Pháp môn Thiền Tông chỉ dạy Công thức rõ ràng để trở về nguồn cội của chính mình, tức trở về Phật giới, còn gọi là thành Phật.

Năm: Đề xuất, Kiến nghị:

Vì những lợi ích lớn lao đó, với tư cách cá nhân là một người công dân nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, tôi xin mạnh dạn kiến nghị với Nhà nước, Văn phòng Chính phủ, các Bộ, đặc biệt là Bộ Giáo dục, Bộ Văn hóa Thông tin Truyền thông, Bộ Khoa học Công nghệ, các cơ quan ngang bộ và Ủy ban Nhân dân các cấp, Giáo hội Phật giáo Việt Nam, hãy cùng xem xét và nghiên cứu thật kỹ về pháp môn Thiền Tông do Tổ đình chùa Thiền Tông Tân Diệu đã trình bày, để:

1- Phổ biến rộng rãi trên mọi phương tiện thông tin đại chúng những nội dung về “Sự thật nơi Trái đất” mà pháp môn Thiền Tông do Tổ đình chùa Thiền Tông Tân Diệu đã trình bày ra.

2- Đưa những nội dung đó vào Sách giáo khoa trong các bậc học, tùy theo mức độ nhận thức của lứa tuổi mà lựa chọn nội dung cho phù hợp.

3- Phổ biến rộng rãi lời dạy của vua Trần Nhân Tông dạy con cách đánh giặc giữ nước đến các tầng lớp trong xã hội, đặc biệt là các Chiến sỹ, Bộ đội, Công an, dân quân nước ta, nhằm giáo dục cho mọi người cách đoàn kết cũng như tinh thần đánh giặc giữ nước của ông cha ta.

4- Đưa pháp môn Thiền Tông vào giảng dạy trong các Chùa, Tu viện, Thiền viện.

Trên đây là những đề nghị của cá nhân tôi, xuất phát từ bản thân là người công dân nước Việt Nam, nhằm muốn góp một phần nhỏ sức mình xây dựng đất nước trở thành một đất nước tươi đẹp, giàu mạnh, phát triển và văn minh.

Xin hãy trả lại cái tinh ba cao quý của Đạo Phật, bởi vốn nguyên là như vậy. Hãy để Mê tín dị đoan trở về với nguồn gốc của nó, ví nó không phải của Đạo Phật. Hãy để Khoa học hiện đại, đã, đang và sẽ kiểm chứng những sự thật mà Đức Phật đã nói cách đây hơn 2.560 năm. Nhà bác học Vật lý Thiên tài người Đức Albert Einstein (1879 – 1955) đã khẳng định: Nếu có một Tôn giáo nào đáp ứng với các nhu cầu của Khoa học hiện đại thì đó là Phật giáo, vì Phật giáo bao gồm cả Khoa học nhưng vượt qua Khoa học. Cuối cùng, hãy trả lại Đạo Phật trở về đúng với tên gọi trước kia vốn là Đạo Giác Ngộ.

Đến đây tôi xin dừng lời, xin chân thành cảm ơn quý vị đã chú ý lắng nghe và xin nhận được nhiều ý kiến đóng góp bổ sung của mọi người. Xin kính chúc toàn thể quý vị thân tâm thường an lạc, quả Phật được viên thành. Chúc buổi Lễ thành công tốt đẹp.

Trân trọng.

Xin hết ạ.

Vâng. Xin cảm ơn Phật gia Vũ Thị Hiếu. Mời Phật gia trở về chỗ cũ.

Thưa quý vị!

Cách đây hơn 2.560 năm, Đức Phật có dạy trong Huyền Ký của Ngài về cấu trúc Càn khôn Vũ trụ. Ngài dạy trong Càn khôn Vũ trụ này có Hằng hà sa số Tam thiên Đại thiên Thế giới, tức có vô số Tam giới, mà mỗi Tam giới được Khoa học ngày nay gọi là: 1- Là Hệ Mặt trời:

– Một Thái Dương hệ gồm:

1- Có một hành tinh Lửa ở trung tâm, làm sự sống cho các hành tinh ở trong Hệ Mặt trời. Còn gọi là Mặt Trời.

2- Có 45 hành tinh có sự sống, trong đó có 6 hành tinh cấu tạo bằng: Đất – Nước – Không khí – Nhiệt độ và Điện từ Âm Dương. Trái đất chúng ta là một trong 6 hành tinh đó trong Hệ Mặt trời.

3- Có vô số các hành tinh làm Vật tư, không có sự sống, được cấu tạo bằng: Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ.

Tóm lại, Đức Phật dạy, trong Càn khôn Vũ trụ này, có vô số Hệ Mặt trời như thế, không thể tính đếm hết được.

Thưa quý vị!

Ngày xưa Đức Phật dạy trong Huyền Ký là như vậy. Còn ngày nay thì như thế nào? Xin mời quý vị cùng hướng về màn hình để xem một đoạn phim ngắn nói về một công bố mới vào tháng 2-2017 của Cơ quan Hàng không Vũ trụ Mỹ, tức NASA. Các Nhà Khoa học đã phát hiện có 7 hành tinh có kích thước gần giống như Trái đất, nằm ngoài Hệ Mặt trời chúng ta, Hệ này được đặt tên là Trappist, cách Trái đát chúng ta 40 năm ánh sáng, tức khoảng 376 tỷ kilomet.Theo đó, ba trong số bảy hành tinh này có sự sống. Xin mời quý vị cùng theo dõi.

Xin cảm ơn tất cả các quý vị đã theo dõi.

Tiếp theo là phần tham luận của Phật tử Hoàng Trung Hiếu.

Phật tử sẽ trình bày về đề tài: Ý nghĩa của việc Mê tín, Chánh tín.

Xin mời Phật tử.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Kính chào tất cả quý vị!

Tôi tên là Hoàng Trung Hiếu, sinh năm 1983, cư ngụ tại Biên Hòa, Đồng Nai. Tôi, nhân buổi Lễ hôm nay, tôi cũng có một bài tham luận về ý nghĩa Mê tín và Chánh tín của đạo Phật. Xin chia sẻ cùng quý vị ở đây ạ.

Mở đề: Trước khi vào phần chính, tôi xin trình sơ qua 5 pháp môn tu có dụng công mà Đức Phât gọi là tu hành có thành tựu trong Vật lý.

1- Tu Tiểu thừa cũng gọi là Nam truyền hay Nam tông:

– Đức Phật dạy trong 15 năm đầu.

2- Tu Trung thừa gọi là Lý luận Bát nhã cũng gọi là Triết lý Phật Thích Ca:

– Đức Phật trong 15 năm kế tiếp.

3- Tu Đại thừa: Nghi, Tìm hay Kiếm trong vật chất:

– Đức Phật dạy trong 15 năm tiếp theo.

4- Tu Tịnh Độ tông: Niệm Phật A Di Đà mong vãng sanh về nước Cực Lạc.

5- Tu Mật Chú tông: Niệm câu Thần chú lấy trong các Kinh điển.

Còn pháp môn thứ Sáu, Đức Phật gọi là Như Lai Thanh Tịnh Thiền, đến đời Tổ thứ 2 trở đi gọi là Thiền Tông. Pháp môn này Đức Phật dạy ở những năm sau cùng của Ngài.

Đức Phật có dạy rõ pháp môn Thiền Tông học này như sau:

Pháp môn Thiền Tông học này phải đợi đến đời Mạt pháp trở đi, khi loài Người Văn minh lên thật cao thì pháp môn Thiền Tông học này mới được phổ trình bày ra. Chúng tôi xin trình rõ, đầu tiên Đức Phật dạy pháp môn này, có những phản ứng như sau:

Khi Đức Phật dạy Kinh Diệu Pháp Liên Hoa xong, Đức Phật nói với các tỳ kheo và đại chúng:

Này các tỳ kheo và đại chúng: Suốt 45 năm qua, Như Lai dạy các tỳ kheo và đại chúng tu hành dụng công có thành tựu theo sự ham muốn của mỗi người, bằng 5 Pháp môn: Tiểu thừa, Trung thừa, Đại thừa, Niệm Phật và Niệm Chú. Nay Như Lai chỉ còn sống 4 năm nữa thôi, nhiệm vụ của một vị Đại Toàn giác là dạy Môn đồ biết 2 phần: Giác ngộ và Giải thoát.

Còn tu theo 5 Pháp môn đầu Đức Phật dạy là còn trong Vật lý Luân hồi. Vì vậy, Đức Phật có dạy các Môn đồ nào thích Giải thoát thì phải tu theo pháp môn Như Lai Thanh Tịnh Thiền. Đương nhiên, không sử dụng 5 Pháp môn tu hành mà suốt 45 năm qua Như Lai đã dạy.

Khi đó, tại hội của Đức Phật dạy Đạo, tỳ kheo và đại chúng có trên 7.000 người, các vị này không ai hỏi lý do mà có nhiều người nói với Đức Phật như sau:

Này ông Cồ Đàm, bộ Ngài bị ma ám rồi hay sao! Ngài dạy chúng tôi tu suốt 45 năm qua, bây giờ bảo chúng tôi phải bỏ hết, Ngài có bị điên không vậy?

Trong số này có cả 10 đệ tử lớn của Đức Phật cũng hùa theo và nói như vậy.

Các người này nói xong, họ đứng dậy bỏ đi trên 5.000 người. Còn lại có 1.251 người, họ cũng nói Đức Phật là không bình thường.

Xin được trở lại.

Kính trình lên quý vị!

Nhà bác học Albert Einstein đã từng nói: Nếu có một Tôn giáo mà có thể đương đầu được với những nhu cầu Khoa học hiện đại, đấy sẽ là Đạo Phật. Tôn giáo của tương lai sẽ là một Tôn giáo Vũ trụ.

Đức Phật hơn 2.550 trước, đã dạy các Môn đồ của Ngài:

– Một Tam giới có 45 hành tinh có sự sống.

– Trong đó, 39 hành tinh cấu tạo bằng Điện từ Âm Dương nhiều màu sắc.

– Có 6 hành tinh Tứ đại như Trái đất có sự sống.

– Và Hằng hà sa số hành tinh Vật tư. Trong đó, nổi bật là các hành tinh cấu tạo bằng: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ.

Ngày nay, Khoa học dùng danh từ Thái Dương Hệ, tức Hệ Mặt trời cũng là một Tam giới.

Đức Phật dạy rõ hơn:

– Một Tiểu thiên Thế giới gồm có 1.000 Tam giới.

– Một Trung thiên Thế giới gồm có 1 triệu Tam giới.

– Một Đại thiên Thế giới gồm có 1 tỷ Tam giới.

– Một Tam thiên Đại thiên Thế giới gồm 1 tỷ tỷ Tam giới. Mà trong Càn khôn Vũ trụ có Hằng hà sa số Tam thiên Đại thiên Thế giới như thế. Tức vô số Hệ Mặt trời.

Hiện nay là năm 2017, nền Văn minh Khoa học Vũ trũ đã lên cao, các Nhà Khoa học kiểm chứng được ngoài Vũ trụ qua kính viễn vọng và các tàu thăm dò vũ trụ được phóng lên từ Trái đất. Vì vậy, những lời Đức Phật dạy các Môn đồ của Ngài hơn 2.500 năm trước, hiện nay chúng ta suy xét và kiểm chứng được nên chúng ta mới tin. Đây cũng gọi là tin đúng sự thật, trong Đạo Phật gọi là Chánh tín đó, thưa quý vị.

Tôi xin được phép phân tích ý nghĩa chữ “Chánh tín” như sau:

– Chữ Chánh: nghĩa là đúng, tức là đúng sự thật.

– Chữ Tín: nghĩa là tin.

– Hai chữ này ghép chung lại là: Tin đúng. Tức tin đúng sự thật.

Còn những gì chưa kiểm chứng được mà chúng ta tin liền, tin đại, tin không suy xét, đây chính là sự Mê tín trong Đạo Phật, mà chúng tôi muốn đề cập đến ngày hôm nay.

Cũng xin phân tích rõ thêm về ý nghĩa chữ “Mê tín”:

– Chữ Mê: nghĩa là lầm.

– Chữ tín: nghĩa là tin.

– Hai chữ này ghép chung lại là: Tin lầm. Tức tin sai sự thật.

Do vậy, khi ta tin vào cái gì đó, không đúng với thực tế và không thuận lý theo Khoa học, được gọi là Mê tín.

Phần lớn những người Mê tín là do họ không hiểu Quy luật Luân hồi nơi Trái đất và Tam giới này. Về phần này, Đức Phật có dạy các Môn đồ của mình: Trái đất này không ai làm ra cả, mà nó được hình thành do Quy luật Tự nhiên bởi Điện từ Âm Dương cuốn hút các hành từ Hố đen Vũ trụ hút các hành tinh Vật tư lại:

– Ban đầu là hành tinh Lửa.

– Tiếp đó là hành tinh Đất chịu nhiệt.

– Rồi đến các hành tinh Cát, Đá.

– Tiếp đó đến hành tinh Đất dành cho sự sống.

– Rồi đến các hành tinh Nước đóng băng.

– Sau cùng là mảnh Thực vật rải rác trong không gian do hành tinh khác đến từ họ hay do bởi Con người ở nơi hành tinh khác họ đang sống Văn minh lên cao rồi tự chính loài Người nơi đó phá hủy. Cuối cùng, qua hàng tỷ năm, khi Con người ở nơi khác đã Văn minh lên cao, khi hành tinh của họ sinh sống sắp bị chính họ hủy diệt, lúc đó loài Người sẽ dùng phi thuyền bay đến hành tinh có sự sống khác để sống.

Còn hiện nay, thời đại Khoa học, dân trí Con người đã lên cao, vậy mà có những người họ vẫn còn tin vào:

– Trái đất do Trời sanh.

– Loài Người do Thượng Đế tạo nên.

Quả thật, những người này họ đều tin lầm rồi vậy!

Hiện nay vẫn có một số Chùa: Cúng tụng, Cầu an, Cầu siêu, Xin xăm, Bói quẻ, Liệt tướng số, Cúng sao giải hạn, Phong thủy xem hướng và Đốt giấy tiền vàng mã. Tất cả những việc làm này không có trong Đạo Phật chánh thống, mà được bắt nguồn từ Đạo Lão ở bên Trung Quốc. Hàng năm Chính phủ ta bỏ ra hàng ngàn tỷ đồng để bài trừ Mê tín, đặc biệt là cấm đốt giấy tiền vàng mã, nhưng dường như những việc làm này vẫn còn là một bài toán nan giải. Điều này làm mất đi cái cốt tủy, cái Tinh hoa Đạo Phật là Giác ngộ và Giải thoát mà Đức Phật dạy các Môn đồ ở Thế giới này. Từ đó làm cho người trí thức, các Nhà khoa học cười chê, vô tình biến Đạo Phật thành đạo Thần quyền, biến Đức Phật thành ông Thầy chuyên ban phước, giáng họa cho Con người.

Đức Phật dạy Đạo cốt yếu chỉ có 2 phần là Giác ngộ và Giải thoát. Nếu người nào dạy sai 2 phần này, được gọi là hiểu sai lời Đức Phật dạy, tức Mê tín. Còn người nào hiểu được những lời dạy của Đức Phật sau đây mới được gọi là người có Chánh tín và sẽ không còn bị ai lừa mình.

Đức Phật dạy:

– Trái đất này là nơi 6 loài sống chung: 1- Loài Thần. 2- Loài Người. 3- Loài Ngạ Quỷ. 4- Loài Súc Sanh. 5- Loài Địa Ngục. 6- Loài Thực Vật.

– Loài Thần làm những hiện tượng lạ để loài Người tin là có linh thiêng, nên cúng cho loài Thần ăn.

– Loài Thần ăn bằng cách: Ngửi mùi hương khi thức ăn còn nóng.

– Loài Ngạ Quỷ ăn bằng cách ngửi mùi khi thức ăn đã nguội lạnh.

– Loài Người ăn vạn vật bằng miệng sau khi cúng xong.

– Loài Súc Sanh ăn bằng miệng khi loài Người ăn xong.

– Loài Địa Ngục ăn bằng cách ngửi mùi khi loài Người và loài Súc Sanh thải ra.

Đức Phật có dạy thêm:

Khi Ta thành Phật, tức sống ở thế giới Mười Phương Chư Phật, nơi Phật giới này hoàn toàn là Điện từ Quang, nên không có Nhân quả Luân hồi theo quy luật: Thành – Trụ – Hoại – Diệt như nơi Trái đất này. Bởi nơi Trái đất này hay Tam giới này đều bị cuốn hút Luân hồi bởi Điện từ Âm Dương. Vì vậy, Như Lai chỉ đến chứng minh, chứ Như Lai không có ăn thức ăn do Con người dâng cúng. Còn loài Trời cũng không vào Trái đất này ăn được, vì loài Trời có Điện từ Dương cao hơn Trái đất, cấu tạo vùng Hoàn đạo cũng khác Trái đất nên không vào Trái đất này ăn thức ăn Con người dâng cúng được.

Đức Phật dạy tiếp:

Nhiệm vụ của mỗi Loài sống nơi Trái đất này đều khác nhau:

Một: Loài Thần có 4 nhiệm vụ:

– Một: Là Thần chủ Thế giới: Lập ra đạo lớn, để loài Người đem 3 cái tánh của con Người là: Tưởng, Tham và Sợ, vào an trú để yên lòng, không sợ sau khi chết.

– Hai: Là Thần chủ quốc gia: Tiếp nối Thần chủ Thế giới truyền bá đạo mà Thần chủ Thế giới truyền dạy.

– Ba: Là Thần chủ vùng quốc gia: Lập ra ngôi Đình để cho Nhân dân trong Đình có nơi nương tựa về tín ngưỡng.

– Bốn: Là Thần bình thường của quốc gia: Có nhiệm vụ làm ra hiện tượng lạ mà loài Người ham muốn để cho loài Người an lòng.

– Năm: Là mỗi loài Thần bình thường: Mỗi vị nào cũng có công việc như:

1- Thần Phụ trách Nhân quả: Mỗi vị Thần phụ trách Nhân quả một Người sống nơi Trái đất này do người đó tạo ra theo suốt dòng đời của họ.

2- Thần Kim Cang: Chịu trách nhiệm hướng dẫn người muốn Giải thoát, khiến Người này đến nơi phổ biến pháp môn Giải Thoát do vị Phật ở Phật giới yêu cầu, và đồng thời bảo vệ pháp môn Thiền Tông.

3- Thần Phụ trách Phước thiện: Chịu trách nhiệm hướng dẫn người nào bị oan trái đến cơ quan nước sở tại kêu oan, do vị Bồ Tát ở nước Tịnh Độ yêu cầu.

4- Nói tóm lại, mỗi vị Thần bình thường vị nào cũng có phụ trách một công việc.

Hai: Loài Người có 6 nhiệm vụ:

– Một: Là tạo ra Nghiệp Phước đức Dương: Để vãng sanh đến các cõi: cõi Trời hay nước Tịnh Độ sống.

– Hai: Là tạo ra Nghiệp Phước đức Âm: Để làm Thần hay Người giàu sang nơi Trái đất này.

– Ba: Là tạo ra Nghiệp Ác đức: Để làm các loài Súc sanh, làm loài Địa ngục hoặc làm Thực vật.

– Bốn: Là không tạo ra các Nghiệp Phước Dương hay Phước Âm, mà muốn ở mãi trong dòng tộc.

– Năm: Là tạo ra Công đức: Để trở về Phật giới.

– Sáu: Là tạo ra Trung Ấm Thân: Để chuyên chở 5 phần nói trên đi:

+ Hưởng Nghiệp Phước đức Dương ở các cõi Trời hay nước Tịnh Độ.

+ Nghiệp Phước đức Âm.

+ Nghiệp ở trong dòng tộc.

+ Trả Nghiệp xấu.

+ Hoặc chuyên chở vỏ bọc tánh Phật có chứa Công đức trở về Phật giới.

Ba: Loài Ngạ Quỷ có 1 nhiệm vụ:

– Giành giựt của người khác.

Bốn: Loài Súc Sanh có 2 nhiệm vụ:

– Một: Là trả Nhân quả khi còn làm Con người mà ham sát hại sinh vật.

– Hai: Là làm thức ăn cho loài Người và các loài khác.

Năm: Loài Địa Ngục có 1 nhiệm vụ:

– Trả Nhân quả khi còn mang thân Người mà mang trọng tội.

Sáu: Loài Thực Vật có 2 nhiệm vụ:

– Một: Là trả Nhân quả khi còn làm Con người mà đi lường gạt người khác về Giải thoát.

– Hai: Làm thức ăn cho loài Người và các loài khác.

* Kết luận:

Người tu theo Đạo Phật muốn có Chánh tín và không bị Mê tín nữa thì cần tìm hiểu để biết thêm 5 phần sau đây chắc chắn sẽ không còn bị tin lầm nữa. Người biết được 5 phần này luôn tin đúng sự thật và tin có trí tuệ.

1- Là biết được Quy luật Nhân quả Luân hồi nơi Trái đất và Tam giới này.

2- Là biết được tánh Phật thanh tịnh của mình là gì.

3- Là biết được tánh Người của mình gồm có những chi.

4- Là biết được Công thức Giải thoát và tạo ra Công đức mới về Quê xưa.

5- Là biết được Phước đức vẫn trong Luân hồi.

Vì vậy:

Đức Phật dạy chữ biết thôi

Biết được tất cả, Luân hồi bỏ ta

Lời dạy của Phật Thích Ca

Buông – Dừng – Thôi – Dứt, được ra Luân hồi.

* Đến phần Kiến nghị và Đề xuất cá nhân của tôi ạ:

Thưa quý vị!

Một Quốc gia hùng mạnh là một Quốc gia không có mê tín dị đoan. Các nước phương Tây và Mỹ cường mạnh là do họ không mê tín dị đoan, họ chủ trương về Khoa học và rất thực tế.

Tôi nhớ có lần tôi đọc một bài trên báo Công an thành phố Hồ Chí Minh, số 3171, đăng ngày thứ 6, ngày 9-9-2016, các đại biểu Quốc hội trong Hội nghị đã đưa ra các ý kiến để tập hợp thành dự án Luật Tín ngưỡng và Tôn giáo, sau đó trình Quốc hội xem xét. Trong đó, có đại biểu cho rằng, cần cấm các hoạt động tín ngưỡng kích động bạo lực, xâm hại động vật như chém lợn, đâm trâu. Trong khi các đại biểu khác thì cho rằng, nên bổ sung thêm các qui định về việc nghiêm cấm các hành vi mê tín dị đoan vào Điều 5 của dự thảo Luật này, v.v…

Do vậy, theo sự nghiên cứu và hiểu biết của mình, với mong muốn giúp đất nước xinh đẹp, giàu mạnh và văn minh, tôi xin mạnh dạn đề xuất như sau:

Tôi thấy Chính phủ ta hàng năm phải bỏ ra hàng ngàn tỷ đồng để bài trừ mê tín dị đoan, hiệu quả thì không có, tuy nhiên, thực tế lại không cao và không dứt được gốc rễ của nó. Vấn đề cốt yếu ở đây là do trình độ kiến thức và sự nhận biết của người dân về Sự thật nơi Trái đất này chưa cao, do sự Mê tín đã ăn sâu vào gốc rễ của những người này rồi. Vì vậy, thiết nghĩ Chính phủ chỉ cần bỏ ra chưa đến một phần ngàn số tiền này, tức khoảng 1 tỷ đồng, để diệt trừ tận gốc phần lớn việc Mê tín dị đoan này.

Như vậy, làm sao thực hiện được điều đó với số tiền này?

Xin thưa, tôi chắc chắn là thực hiện được với các điều khoản như sau:

1- Toàn bộ số tiền 1 tỷ này hỗ trợ chùa Thiền Tông Tân Diệu in những tài liệu về Sự thật Trái đất, tài liệu về Mê tín, Chánh tín để phát miễn phí và phổ biến rộng rãi cho người dân Việt Nam được biết. Khi họ nhận thức và hiểu được sự thật thì chúng ta không cần phải ra lệnh dẹp bỏ làm gì, vì tự thân họ đã làm giúp chúng ta.

2- Chính phủ và các cơ quan Văn hóa, Thông tin có liên quan cùng chùa Thiền Tông Tân Diệu để phổ biến pháp môn Thiền Tông Khoa Học này cho nhiều người cùng biết.

3- Các cơ quan báo đài sử dụng tài liệu về Sự thật Trái đất cũng như Mê tín, Chánh tín của chùa Thiền Tông Tân Diệu phổ biến ra để tuyên truyền rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng.

4- Các chùa lập ra là để dạy Giáo pháp Giác ngộ và Giải thoát của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Do vậy, tôi thiết nghĩ Ban Tôn giáo Chính phủ, Giáo hội Phật giáo Việt Nam nên hỗ trợ chùa Tân Diệu để cùng nhau phổ biến pháp môn Thiền Tông của Đức Phật dạy cho nhiều người cùng biết, vì Thiền Tông ra đời là để dẹp bỏ bớt Mê tín đị đoan nơi Con người, như vậy hiệu quả thực tế sẽ rất cao.

Vì sao?

Vì vừa có sự hỗ trợ của Chính phủ cùng sự chỉ đạo của Ban Tôn giáo Chính phủ, cũng như Giáo hội Phật giáo Việt Nam, các cơ quan truyền thông báo, đài cũng như quan trọng là sự hiểu biết và tự ý thức của người dân thì dự án ấy không thành công sao được. Từ đó tránh thực trạng đang diễn ra hiện nay: Trên bảo, dưới không nghe, tức Chính phủ thì ra lệnh cấm, còn người dân vẫn cứ làm theo cái thói của họ! Khi các bên phối hợp được rồi thì: Trên không bảo nhưng dưới vẫn nghe. Tôi xin gọi vui thuật này là “Thả tép bắt tôm” vậy.

Kính thưa quý vị!

Kính bạch Đức Thế Tôn!

Đây là những lời góp ý rất chân thành từ tận đáy lòng của tôi. Chỉ có như vậy thì Giáo Pháp của Ngài mới đi khắp năm Châu và bùng ra nhanh nhất được!

Dạ, tôi cũng xin kết thúc bài tham luận của tôi ở đây.

Kính chúc quý vị sức khỏe!

Dạ cảm ơn tất cả.

Chép lại từ video, đoạn từ phút đầu tiên đến phút thứ 1:12:03.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *