LỜI NÓI ĐẦU
Kính thưa độc giả!
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni lập ra đạo có 2 mục đích chánh như sau:
Một: Giúp cho những ai muốn hiểu rõ về nhân sinh và vũ trụ.
Hai: Giúp cho những ai muốn giải thoát ra ngoài sự cuốn hút của vật lý nơi thế giới này.
Nên Ngài tuần tự dạy có 6 pháp môn:
- Năm pháp môn đầu Ngài sử dụng tâm sinh diệt vật lý tánh Người của Ngài, để dạy cho những ai thích có thần thông, phép mầu, huyền diệu, kỳ bí và linh thiêng đến học.
- Một pháp môn sau cùng Ngài sử dụng tánh Phật thanh tịnh của Ngài để dạy, giúp cho những ai muốn, thoát ra ngoài sự cuốn hút của vật lý nơi thế giới này biết mà thực hành.
Chúng tôi xin nêu sáu pháp môn nói trên như sau:
Pháp môn thứ nhất: Ngài sử dụng tâm sinh diệt vật lý để dạy tu: Quán, Tưởng, cầu Mong.
Được thành tựu trong phòng nhỏ hẹp nên gọi là “Tiểu thừa”; vì là pháp môn Ngài dạy đầu tiên cho đại chúng nên gọi là “Nguyên thủy”. Pháp môn này các thầy đem về phương Nam của nước Ấn Độ truyền bá, nên gọi là “Nam truyền”.
Pháp môn thứ hai: Ngài cũng sử dụng tâm sinh diệt vật lý của tánh Người của Ngài để luận bàn những chuyện trong vật lý nên gọi là “Trung thừa”.
Vì sao gọi là Trung thừa?
- Vì pháp môn này nằm giữa tiểu và đại nên gọi là Trung thừa. Pháp môn này Đức Phật giảng rất rõ ràng từ vật nhỏ nhất là vi trần, hiện nay gọi là nguyên tử và điện tử. Những vị theo học với
Đức Phật, họ cho pháp môn này rất hay, nên các vị thời đó gọi là “Triết Lý Phật Thích Ca”.
Pháp môn thứ ba: Ngài cũng sử dụng tâm sinh diệt vật lý của Ngài để Nghi, Tìm hay Kiếm, nguyên nhân sanh ra loài người, vũ trụ, vạn vật, và công dụng của mỗi thứ hay mỗi loài. Vì là mênh mông và trùm khắp nên gọi là “Đại thừa”; tức giúp cho nhiều người biết tường tận, mạch lạc và khoa học, các vị thời đó gọi là “Chuyên chở lớn”.
Pháp môn thứ tư: Ngài cũng sử dụng tâm sinh diệt vật lý của Ngài để niệm ba cái vô lượng. Pháp môn này Ngài dạy trong ẩn ý là để giúp người niệm được “Rơi vào Bể tánh Thanh tịnh Phật tánh”. Các thầy sau này dạy người niệm phải nhớ đến Đức Phật A Di Đà, để vị Phật này rước người niệm về nước của Ngài ở.
Thuở xưa, Đức Phật dạy như thế nào, còn hiện nay quý thầy dạy ra sao? Vậy, chúng ta cùng tìm hiểu.
Ngày xưa, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy:
- Ngài gọi nước “Thanh tịnh” là “Tịnh Độ”. Vì sao Đức Phật gọi như vậy?
- Xin thưa, vì khi tâm người tu tự nhiên được thanh tịnh, mà không dụng công, tự nhiên được “Rơi vào chỗ Thanh tịnh”. Chỗ Thanh tịnh này chỉ người được rơi mới biết thôi. Vì lẽ đó, không thể nào viết ra thành văn tự được, nên Đức Phật dạy là “Bất lập văn tự”. Vì không viết ra chữ được, nên Đức Phật dạy pháp môn này phải truyền theo dòng Thiền của nó, tức truyền ngoài kinh điển thông thường, mà quý vị Tổ sư thiền gọi là “Truyền ngoài giáo lý”.
Để chứng minh không nói và viết ra lời và văn được, nên ở Việt Nam chúng ta có trường hợp như sau:
Ngày xưa, vua Trần Nhân Tông tu theo pháp môn Thiền tông học, khi Ngài được “Rơi vào Bể tánh Thanh tịnh Phật tánh”. Cha của Ngài và Ngài dẹp xong 3 lần quân Nguyên – Mông xâm lược nước ta, Ngài nhường ngôi vua cho con là Trần Anh Tông lên núi Trúc Lâm Yên Tử lập ra phái “Thiền tông Trúc Lâm Yên Tử” để dạy pháp môn Thiền tông học này. Có ông quan phụ trách văn hóa Triệu Nhật Trường từ kinh thành lên hỏi Ngài như sau:
- Kính thưa Thái Thượng Hoàng, khi Ngài được “Rơi vào Bể tánh Thanh tịnh Phật tánh”, cảm giác của Ngài như thế nào, xin nói lại cho chúng con rõ?
Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông bảo ông quan phụ trách văn hóa Triệu Nhật Trường:
- Ông về triều đình đi, một năm sau lên đây ta sẽ nói cho ông rõ.
Ông quan phụ trách văn hóa trở về triều đình. Mùa Đông năm sau, ông trở lên núi Yên Tử. Đức Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông bảo ông vào trong chùa Đồng ngồi và Ngài đóng cửa chùa Đồng lại. Độ 5 phút sau, ông quan phụ trách văn hóa Triệu Nhật Trường thưa với Thái Thượng Hoàng:
- Con bị lạnh quá, xin Thái Thượng Hoàng mở cửa cho con
Đức Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông liền mở cửa chùa Đồng ra, ông quan phụ trách văn hóa Triệu Nhật Trường liền nhanh chân bước ra ngoài, thân ông rất run rẩy!
Đức Thái Thượng Hoàng hỏi ông quan phụ trách văn hóa:
- Vậy, ông hãy nói cái lạnh buốt mà ông ngồi trong chùa Đồng như thế nào, hãy diễn tả lại cho ta nghe thử?
Ông quan phụ trách văn hóa Triệu Nhật Trường thân còn đang run rẩy lập cập trình thưa với Đức Thái Thượng Hoàng:
- Dạ, cái cực kỳ lạnh buốt đó, chỉ có con biết, chớ làm sao diễn tả lại cho Thái Thượng Hoàng biết được.
Đức Thái Thượng Hoàng Trần Nhân Tông bảo:
- Việc ta được “Rơi vào Bể tánh Thanh tịnh Phật tánh” tự ta biết, chớ làm sao nói cho ông nghe được.
Vì nguyên lý này, cho nên Đức Phật dạy pháp môn Thiền tông học này, khi ai cảm nhận được cái “Thanh tịnh” tự nhiên của chính mình, hay được “Rơi vào Bể tánh Thanh tịnh Phật tánh”, thì không nói cho ai biết được, nên Đức Phật mới nói như trên.
Còn các thầy hiện nay dạy:
Pháp môn thứ năm: Ngài sử dụng tâm vật lý của tánh Người dạy tu, là dùng câu thần chú để niệm. Thuật niệm câu thần chú là hút điện từ Âm Dương nơi thế giới này vào tâm vật lý của
người niệm. Khi người niệm tích điện từ Âm Dương được đầy trong tâm và thân mình rồi, liền tưởng cho khối điện từ Âm Dương ấy bung ra. Nếu người niệm để cây đèn đang cháy trước mặt mình, thì lửa của cây đèn sẽ tắt liền, còn để đống cát hay hòn đá trước mặt thì cát sẽ bay đi, hòn đá bị lăn tròn. Cho nên có câu: “Cát bay đá chạy” là lý do này.
Để làm chi vậy?
- Pháp môn này có công dụng theo chiều vật lý như sau:
- Người tu theo pháp môn này làm thầy trị bệnh đau nhức rất hay, còn người bị đau dây thần kinh thì mau hết bệnh, v.v…
- Người chung quanh sợ không dám quậy phá mình.
- Kiếm tiền rất dễ.
- Còn danh thì nổi như cồn, v…
Pháp môn thứ sáu: Ngài không sử dụng tâm vật lý, mà Ngài chỉ sử dụng tánh Phật thanh tịnh. Cứ để cho nó tự nhiên thanh tịnh là phải.
Để chi vậy?
- Pháp môn thứ sáu này, Đức Phật dạy:
- Vị nào thực hiện được, thì dòng điện Âm Đương luôn lúc nào cũng quét qua vỏ bọc tánh Người để đưa tánh Người đi theo dòng luân hồi, nhưng vì tánh Người ở trạng thái thanh tịnh, nên không nhô ra những cái suy nghĩ, nên dòng điện từ Âm Dương không có gì để quét. Nếu vị nào tập cho được thuần thục, thì dòng luân hồi không kéo được người đó, nhờ vậy tánh Phật trong người đó dễ dàng được giải thoát. Nhưng ở phần tánh Phật mới được thong thả thôi.
Phật tánh ỏ trong vỏ bọc tánh Người muốn trở về Bể tánh Thanh tịnh Phật tánh phải có 1 trong 2 phần công đức như sau:
- Công đức ít, nhờ Điện Từ Quang hút qua cửa Hải Triều Âm để vào Bể tánh Thanh tịnh Phật tánh.Công đức nhiều hoặc vô lượng, tự nó vào Bể tánh Thanh tịnh Phật tánh. Công đức để làm gì?
- Công đức là để hình thành ra Pháp Thân Thanh Tịnh. Cái Pháp Thân Thanh Tịnh này là cái vỏ bọc hình thể của một vị Phật, nhờ cái vỏ bọc này mà Phật tánh mới vào an trú trong đó để một vị Phật ra đời.
Đức Phật dạy:
- Khi tánh Phật ở trong vỏ bọc của tánh Người vượt qua cửa Hải Triều Âm, thì tánh Người lúc này còn là cái vỏ bọc trống rỗng, tự nhiên nó phải di chuyển theo dòng luân hồi để tiếp nhận tánh khác từ lõi cao xuống hay từ lõi thấp lên.
Đức Phật dạy chỗ tuyệt mật này:
- Pháp môn Thiền tông học này Như Lai chỉ dạy riêng cho các vị Tổ Sư thiền có nhiệm vụ dẫn Mạch nguồn Thiền tông chảy riêng theo dòng Thiền của nó mà thôi. Còn vào đời Mạt pháp, vị nào tiếp nhận được Mạch nguồn Thiền tông mới hiểu. Sau đó, vị nào đạt được “Bí mật Thiền tông”, thì vị đứng ra truyền “Bí mật Thiền tông” mới được phép cung cấp cho vị này những pháp yếu mà Như Lai dạy nơi dòng Thiền tông.
Pháp môn Thiền tông tuyệt mật nên, hiện nay nhiều vị tưởng tượng ra giảng như sau:
- Bất lập văn tự.
- Giáo ngoại biệt truyền.
Giảng:
- Không viết ra thành văn, rất đúng.
- Còn giáo ngoại biệt truyền, giảng nói đông phải hiểu tây.
Chúng tôi xin nêu 4 trường hợp đặc biệt về pháp môn Thiền tông học này như sau:
- Ngày xưa, Đức Phật tuyên dạy pháp môn này, có trên 5.000 người bỏ đi, chỉ còn ở lại nghe có 1.250 vị. Còn nhiều người như vậy, mà chỉ có 2 vị nhận được pháp môn Thiền tông học cao quý này. Còn bao nhiêu người nghe họ nói Đức Phật bị Ma ám!
- Tổ Bồ Đề Đạt Ma, khi truyền Thiền tông lại cho Tổ Huệ Khả rồi, Ngài đến nơi công cộng nói rõ pháp môn Thiền tông học này, họ bị những người tu ham mê vật chất, thuốc Tổ đến 6 lần, sau cùng Tổ đành phải bỏ thân!
- Tổ Huệ Khả không tin những người tu theo đạo Phật mà có lòng ác độc như vậy, nên Tổ thử nghiệm lần thứ 2, Tổ cũng bị những người tu mà ham mê vật chất, lo lót cho chính quyền bắt giam Tổ và gán cho Tổ tội phản quốc, nên Tổ đành chết trong tù !
- Thấy gương Đức Phật và 2 vị Tổ sư xưa, nên Ngài Lư Huệ Năng khi được trao Tổ vị, Ngài phải chạy trốn giữa đêm khuya, ẩn thân đến 15 năm. Khi công khai trình Tổ vị, Ngài cũng không dám dạy pháp môn Thiền tông học này, mà chỉ dạy pháp môn Trung thừa thôi, tức dạy pháp môn Bát Nhã. Thấy người đệ tử nào muốn giác ngộ và giải thoát, Ngài lén dạy riêng cho vị ấy thôi.
Đức Phật có dạy pháp môn Thiền tông học này như sau:
- Sau các đời Tổ được truyền “Bí mật Thiền tông”, vị nào khi nhận được Mạch nguồn Thiền tông này, phổ biến cho vài người biết rồi phải lẩn tránh ngay, kẻo bị người tu còn ham mê vật chất sát hại!
Đức Phật lại dạy thêm:
- Pháp môn Thiền tông học này, phải đợi đến đời Mạt pháp, khi loài người văn minh lên cao, tức hiểu biết về khoa học rõ ràng, thì sẽ có người nói rõ pháp môn Thiền tông học này. Nhưng người này phải nhận rõ 2 điều kiện như sau:
Một: Phải tự mình xây lên một ngôi chùa đúng theo phong cách Thiền tông mà Như Lai có dạy rõ nơi Huyền ký.
Hai: Sống, chết của thân mạng mình không màng đến. Đức Phật dạy căn bản cho người tu Thiền tông:
- Khi loài người đã văn minh lên cao, muốn tu theo pháp môn Thiền tông học này phải hiểu thật rõ:
- Phải hiểu căn bản 16 thứ của tánh Người.
- Phải hiểu căn bản 4 thứ của tánh Phật.
Còn trong vật lý:
- Cất chùa to, bị vướng vào chùa ấy.
- Có tượng Phật lớn, họ vướng vào tượng Phật ấy.
- Thầy nào nói hay, bị vướng vào ông thầy ấy.
- Thầy nào có danh tiếng lớn, bị vướng vào danh ảo ấy.
- Mê thầy có nhiều tiền, bị vướng vào danh giàu sang đó.
- Thầy có địa vị cao, bị vướng vào danh địa vị ấy.
Trên đây là 2 và 6 căn bản mà người tu theo pháp môn Thiền tông học phải hiểu rõ, thì mới mong tu đúng và giải thoát được. Còn không biết căn bản nói trên tu theo đạo Phật vô ích, vô tình người tu theo sự xúi bảo của Ma Vương.
Người tu theo pháp môn Thiền tông học, phải nhận biết 3 phần như sau:
Phần một: Vị nào hiểu được khái niệm pháp môn Thiền tông học này, gọi là giác ngộ “Yếu chỉ Thiền tông”.
Phần hai: Vị nào giải thích được tất cả những ngôn từ của Đức Phật dạy, gọi là đạt được “Bí mật Thiền tông”.
Phần ba: Vị nào được “Rơi vào Bể tánh Thanh tịnh Phật tánh”, Đức Phật dạy gọi là được “Về đến quê xưa của mình”.
Chúng tôi xin nói thật rõ phần bí yếu của Pháp môn Thiền tông học này: Đức Phật không cho viết ra thành văn, nên được gọi là “Bất lập văn tự”.
Vì pháp môn Thiền tông học này không viết ra văn, nên không truyền theo kinh điển bình thường được, nên được gọi là “Giáo ngoại biệt truyền”.
Pháp môn Thiền tông học này, Đức Phật chỉ thẳng cái gì là tánh Người, nên được gọi là “Chỉ thẳng Nhân tánh”.
Pháp môn Thiền tông học này, Đức Phật nói rõ tánh Phật là gì, ai nhận ra tánh Phật của chính mình rồi, thì mới mong thành Phật được, nên Như Lai dạy: “Kiến tánh thành Phật”.
Trên đây là những ý chánh mà Đức Phật dạy pháp môn Thiền tông học này, vị nào hiểu rõ thì mới tu, còn không biết rõ mà đứng ra dạy pháp môn Thiền tông học này là lừa người, thì sẽ bị quả báo rất nặng nề lắm đó!
Trí khôn của loài người hiện nay đã văn minh lên cao, nên việc phán đoán của họ rất chính xác, ai tu gì là mê tín, ai tu gì là đúng. Do đó, chúng tôi mới sưu tầm những lời dạy chân thật của Đức Phật, để cống hiến cho quý vị với 4 mục đích chánh như sau:
Một: Nói lên chân thật từ vô hình đến hữu hình mà Như Lai đã dạy trong suốt cuộc đời của Ngài.
Hai: Phá đi những gì không đúng sự thật, giúp cho những ai muốn giác ngộ và giải thoát biết, để không bị người khác lừa mình.
Ba: Vị nào có đầu óc thực tế và khoa học, họ nhận ra rất dễ dàng.
Bốn: Về trật tự xã hội, không làm mất an ninh, để quốc gia mình được an ổn.
Những câu hỏi sau đây, chúng tôi ghi âm vào năm 2010, nên ghi số tuổi những vị hỏi ở thời điểm đó.
Người sưu tầm Thiền học Phật giáo là tác giả
NGUYỄN NHÂN
tức Nguyễn Công Nhân